-->

Tư vấn trường hợp lừa đảo để bán nhà

Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa thì có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu

Hỏi: Bà nội tôi có 1 căn nhà do bà đứng tên bà có 7 người con và bà đang sống cùng con trai út, nhưng bà nội tôi năm nay đã 80 mươi mấy tuổi bà bị lãng trí và nằm liệt giường, người con trai út ( tôi gọi bằng chú ) đã cầm sổ đỏ của bà nội tôi đứng tên đem đi bán trong khi đó nội tôi không biết gì hết mà đến ngày 26/05/2016 này thì họ đến lấy nhà. Gia đình tôi cùng bà nội có thể khởi kiện ra tòa để đòi lại căn nhà được không vì gia đình tôi biết người con trai út đã lợi dụng sự lớn tuổi và lãng trí của nội tôi để ép bà lăn tay vào giấy bán nhà để lừa đảo bán căn nhà do nội tôi đứng tên trong khi đó nội tôi đi không được và chưa bao giờ lên phường để chứng nhận giấy cho con trai út bán nhà. Đề nghị Luật sư tư vấn. (Tùng Anh - Thái Bình)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thanh Thu - Tổ tư vấn pháp luật hợp đồng Công ty Luật TNHH Everest trả lời:

Trong trường hợp này nếu như có thể chứng minh được rằng bà nộianh (chị)bị lừa dối khi bị chú củaanh (chị)lừa ép bà lăn tay vào giấy bán nhà thì bàanh (chị)có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự này vô hiệu. Tuy nhiên nếu bàanh (chị)bị lãng trí và nằm liệt giường bệnh đến mức không có khả năng điều khiển được hành vi (không thể tự mình đứng ra thực hiện các giao dịch dân sự được) thì theo quy định tại Điều 22 Bộ luật dân sự 2005, trong trường hợp này, 6 người con còn lại trong gia đìnhanh (chị)nộp đơn lên Tòa án yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố bàanh (chị)bị mất năng lực hành vi dân sự. Lúc này, các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của bàanh (chị)sẽ được thông qua người giám hộ.

Có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định tại Điều 132 BLDS 2005 nếu giao dịch dân sự đó bị lừa dối, đe dọa hoặc tại Điều 133 về Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình như sau:

Điều 132. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa

"Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa thì có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.

Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình."

Điều 133. Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình

"Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu."

Vì vậy, hiện nay thì thời hiệu yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu vẫn còn nên Mẹanh (chị)có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu. Cụ thể Điều 136 BLDS quy định về thời hiệu yêu cầu như sau:

Điều 136. Thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu

"1. Thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại các điều từ Điều 130 đến Điều 134 của Bộ luật này là hai năm, kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập.

2. Đối với các giao dịch dân sự được quy định tại Điều 128 và Điều 129 của Bộ luật này thì thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế."

Do đó khi Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì hậu quả là hai bên trả lại cho nhau những gì đã nhận. Cụ thể:

Điều 137. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu

"1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.

2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường."

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật hợp đồng mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.