-->

Từ chối nhận di sản có đòi lại được không?

Người được nhận di sản thừa kế đã đồng ý từ chối nhận di sản thừa kế có văn bản theo quy định của pháp luật không còn quyền yêu cầu chia di sản thừa kế và không thể đòi lại số di sản đã từ chối.

Hỏi:Trước khi mất bố mẹ tôi có để lại di sảnn trị giá 01 tỷ đồng cho hai anh em tôi. Do lúc đó tôi cũng có điều kiện về kinh tế nên tôi đã có văn bảnn từ chốíi nhận di sản. Hiện tại, do cuộc sống khó khăn nên tôi muốn đòi lại phần thừa kế của mình. Đề nghị luậttư vấn, tôi có thể đòi lại phần di sản đã từ chối không? (Ngọc Loan - Vĩnh Phúc)

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thị Thủy-Công ty LuậtTNHH Everest - trả lời:

Chúng tôi trích dẫn Điều 642 của Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về việc từ chối nhận di sản, để anh (chị) tham khảo như sau:

“1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác; 2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản; người từ chối phải báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản; 3. Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế. Sau sáu tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu không có từ chối nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận thừa kế.”

Như vậy, căn cứ quy định trên, anh (chị) đã từ chối nhận di sản thừa kế có lập thành văn bản, do đó anh (chị) không còn quyền yêu cầu chia di sản thừa kế và không thể đòi lại số di sản đã từ chối.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.