Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Hỏi: Em có 1 đứa em cách đây 3 năm trước đã quan hệ với 1 người đàn ông và trong thời điểm đó em của em chưa đủ 18 tuổi, lúc đó do hoàn cảnh nên nó cũng đã đồng ý cho người đàn ông đó quan hệ.Thời điểm bây giờ người đàn ông đó không muốn lo cho em của em nữa thì bên phía em có thể tố cáo người đó về tội giao cấu với trẻ em dưới 18 tuổi không thưa anh chị? (Trần Hải - Quảng Nam)
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật gia Nguyễn Đại Hải - Tổ tư vấn pháp luật tố tụng của Công ty Luật TNHH Everest - Trả lời:
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 23 và điều 24Bộ Luật hình sự:
"Điều 23. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
1. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
2. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:
a) Năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng;
b) Mười năm đối với các tội phạm nghiêm trọng;
c) Mười lăm năm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng;
d) Hai mươi năm đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
3. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này người phạm tội lại phạm tội mới mà Bộ luật quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên một năm tù, thì thời gian đã qua không được tính và thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày phạm tội mới.
Nếu trong thời hạn nói trên, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có lệnh truy nã, thì thời gian trốn tránh không được tính và thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra tự thú hoặc bị bắt giữ".
"Điều 24. Không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
Không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 23 của Bộ luật này đối với các tội quy định tại Chương XI và Chương XXIV của Bộ luật này".
Theo quy định trên, Tòa án chỉ thụ lý xét xử mộtvụ ánhình sự khi thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội danh đó vẫn còn, trừ trường hợp tội danh này thuộc trường hợp không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
Muốnbiết được tội phạm này được coi là tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm đặc đặc biệt nghiêm trọng hay tội phạm đặc biệt nghiêm trọng để xác định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì cần căn cứ vào khoản 3 điều 8 BLHS:
"3. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình".
Như vậy để xác định tội phạm này thuộc loạitội phạm nào thì cần căn cứ vào mức cao nhất của khung hình hình đối với tội danh ấy.
Theo dữ kiện bạn đưa ra, 3 năm trước em gái bạn có tự nguyện quan hệ với 1 người đàn ông, như vậy có 2 trường hợp xảy ra:
- Trường hợp tại thời điểm giao cấu em gái bạn chưa đủ 16 tuổi
Điều 115 quy định về tội giao cấu với trẻ em như sau:
“Điều 115. Tội giao cấu với trẻ em
1. Người nào đã thành niên mà giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
a) Phạm tội nhiều lần;
b) Đối với nhiều người;
c) Có tính chất loạn luân;
d) Làm nạn nhân có thai;
đ) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên;
b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội”.
Giao cấu với trẻ em là hành vi của một người đã thành niên giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi không trái với ý muốn của nạn nhân. Mức khung hình phạt cao nhất đối với tội danh này là 10 năm. Như vậy căn cứ tại khoản 3 điều 8 BLHS, tội giao cấu với trẻ em là tội phạm rất nghiêm trọng. Do đó, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội giao cấu trẻ em là 15 năm kể từ ngày xảy ra hành vi phạm tội. Như vậy,trong trường hợp em gái bạn có hành vitựnguyện giao cấu với 1 người đàn ông khi chưa đủ 16 tuổi thì người đàn ông này sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giao cấu với trẻ em, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội này là 15 năm kể từ ngày xảy ra hành vi phạm tội. Dựa trên dữ kiện bạn đưa ra thì em gái bạn đã có quan hệ giao cấu với người phạm tội đến nay được 3 năm, như vậy thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội này vẫn còn. Do vậy, bạn hoặc em gái bạn có thể nộp đến Tòa án nhân dân cấp huyện nơi xảy ra hành vi phạm tội này để đòi quyền lợi.
- Trường hợp tại thời điểm giao cấuem gái bạn đã đủ 16 tuổi
Căn cứ tại Điều 115 BLHS quy định về tội giao cấu với trẻ em, theo đó độ tuổi nạn nhânđể xác địnhtội giao cấu với trẻ em là dưới 16 tuổi, tức là nếu một người đã đủ 16 tuổi và tự nguyện giao cấu với một người khác thì hành vi này sẽ không bị truy tố trách nhiệm hình sự. Như vậy, đối với trường hợp em gái bạn có hành vi tự nguyện quan hệ với một người đàn ông khi đã đủ 16 tuổi thì hành vi này không phải là hành vi vi phạm pháp luật. Do đó, bạn sẽ không có quyền nộp đơn khởi tố anh ta về tội giao cấu với trẻ em.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật tố tụng mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận