Tài sản chung vợ chồng được xác định theo Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014
Hỏi: Vợ chồng tôi đã ly hôn tháng 9 năm 2014. Về tài sản chung: chúng tôi có một căn nhà trên mảnh đất 168m2 (mảnh đất trên là do bố mẹ chồng tôi cho, hiện đứng tên cả hai vợ chồng) và một căn hộ chung cư 78m2. Chồng tôi đứng tên một mình. Khi ly hôn chúng tôi đã đề nghị tòa cho tự giải quyết về tài sản. Và tôi chỉ có nguyện vọng con tôi được ở chính căn nhà nơi các cháu sinh ra và lớn lên cho đến lúc các cháu xây dựng gia đình, cho các cháu có đủ hai bên gia đình nội ngoại. Nay chồng tôi cho rằng việc con tôi được ở đó như một sự ban ơn, và anh ấy chia cho tôi căn hộ chung cư nhưng không sang tên cho tôi. Tài sản tôi cũng không nghĩ hơn thiệt, chia sao cũng được. Nhưng thái độ của chồng tôi khiến tôi rất đau lòng. Tôi luôn thấy mình bị xúc phạm. Nay tôi muốn nhờ tòa phân chia tài sản cho rõ ràng, tôi phải làm như thế nào? (Phạm Hiếu - Hà Nội)
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật gia Nguyễn Thanh Thu - Tổ tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình Công ty Luật TNHH Everest trả lời:
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình 2014 về việc chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn như sau:
"1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.
Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết."
Đối với vấn đề tài sản chung của vợ chồng pháp luật không bắt buộc phải đồng thời giải quyết chia tài sản khi tòa án giải quyết ly hôn. Đồng thời pháp luật cũng khuyến khích việc vợ chồng có thể tự thỏa thuận về việc chia tàn sản chung vợ chồng. Việc phân chia một só tài sản phải đăng ký như đất đai hay nhà ở phải thực hiện thủ tục tại cơ quan đăng ký quyền sử dụng đất thì việc chia tài sản đó mới được coi là hợp pháp. Nếu không thực hiện thủ tục trên thì về mặt pháp lý đó vẫn là tài sản chung chưa phân chia mặc dù đồng sở hữu không còn là vợ chồng.
Nếu tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của cả 2 vợ chồng được xác định bao gồm: căn nhà trên mảnh đất diện tích 168m2 và một căn hộ chung cư 68m2 mà khi 2 người thỏa thuận chia tài sản khi ly hôn mà chưa làm thủ tục tại cơ quan đăng ký thì hiện tại khi 2 người không còn là vợ chồng nhưng vẫn là sở hữu chung của các tài sản trên.
Do đó nếu phát sinh tranh chấp 2 bên có thể tự hòa giải. nếu không hòa giải được thì đối với tài sản chung là căn nhà chung cư theo Điều 177 Luật nhà ở 2014 pháp luật không bắt buộc phải hòa giải dó đó có thể yêu cầu tòa án giải quyết. Tuy nhiên đối với tài sản chung là diện tích đất 168m2 thì căn cứ vào Điều 202, 203 Luật đất đai 2013 các bên phải bắt buộc tiến hành hòa giải tại UBND cấp xã và việc hòa giả phải bắt buộc lập thành biên bản và có xác nhận của UBND xấp xã về việc hòa giải thành hoặc không thành. Khi có xác nhận về việc hòa giải không thành thì bạn mới có thể khởi kiện đến Tòa án để giải quyết tranh chấp. Khi có yêu cầu tiếp tục chia tài sản chung sau khi đã ly hôn thì tòa án sẽ giải quyết vụ án chia tài sản thuộc sở hữu chung.
Hiện nay pháp luật không có quy định hạn chế về thời hiệu chia tài sản chung, nên mặc dù ly hôn từ năm 2014 nhưng bạn vẫn có thể làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc chia tài sản của mình.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận