-->

Những hành vi bị pháp luật nghiêm cấm trong lĩnh vực hôn nhân gia đình

Gia đình là tế bào của xã hội, để xã hội ổn định, phát triển thì việc quan tâm và bảo vệ các quan hệ trong gia đình là điều cần phải làm. Quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập, thực hiện theo quy định của pháp luật được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.

Những hành vi xâm phạm đến các quan hệ hôn nhân gia đình đều bị pháp luật nghiêm cấm.

Luật sư tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình - Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài (24/7): 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình - Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài (24/7): 1900 6198

Các hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực hôn nhân gia đình được quy định tại Khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân gia đình 2014:

“Cấm các hành vi sau đây: (a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo; (b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn; (c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ; (d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng; (đ) Yêu sách của cải trong kết hôn; (e) Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn; (g) Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính; (h) Bạo lực gia đình; (i) Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi”.

Thứ nhất, hành vi kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo

Kết hôn giả tạo là việc lợi dụng kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích xây dựng gia đình.

Mặc dù kết hôn giả tạo vẫn đảm bảo về mặt thủ tục tuy nhiên mục đích kết hôn không đảm bảo, việc kết hôn và các thủ tục pháp lý chỉ là hình thức trên mặt giấy tờ.

Ly hôn giả tạo là việc lợi dụng ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ tài sản, vi phạm chính sách, pháp luật về dân số hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích chấm dứt hôn nhân.

Hành vi ly hôn giả tạo bị pháp luật nghiêm cấm và sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định tại Điều 35 Nghị định 67/2015 như sau:

“2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: (a) Lợi dụng việc ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ tài sản, vi phạm chính sách, pháp luật về dân số hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích chấm dứt hôn nhân”.

Thứ hai, hành vi tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn

Tảo hôn là trường hợp kết hôn trong đó cô dâu và chú rể hoặc một trong hai người là trẻ em hoặc chưa đến tuổi kết hôn.

Cưỡng ép người khác kết hôn là hành vi khiến người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ bằng thủ đoạn hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần hoặc bằng thủ đoạn khác.

Cản trở người khác kết hôn là ngăn cấm không cho nam và nữ kết hôn với nhau mặc dù họ đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Hành vi này có thể kết hợp với thủ đoạn hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần.

Lừa dối kết hôn là cố ý khiến người khác hiểu làm, khiến họ kết hôn trái với sự tự nguyện của hộ.

Đối với hành vi này, pháp luật quy định xử phạt vi phạm hành chính như sau:

“Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây: - 1. Cưỡng ép người khác kết hôn, ly hôn, tảo hôn bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần hoặc bằng thủ đoạn khác. - 2. Cản trở người khác kết hôn, ly hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác”.

Thứ ba, hành vi đã có vợ (chồng) mà chung sống như vợ chồng với người khác

Việc có vợ, chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác vi phạm nguyên tắc hôn nhân bình đẳng, một vợ một chồng của pháp luật. Như vậy, mức phạt hành chính đối với hành vi này được quy định như sau:

“Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: - Đang có vợ, có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác; - Chưa có vợ, chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có vợ, có chồng.”

Thứ tư, hành vi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ

Hành vi này bao gồm cả việc kết hôn giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng.

Do pháp luật phải dựa trên nền tảng đạo đức nên việc kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ không được pháp luật và xã hội thừa nhận.

Mức phạt hành chính đối với hành vi này được quy định như sau:

Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: - Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; - Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa cha mẹ nuôi với con nuôi; - Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng”.

Thứ năm, các hành vi khác

Các hành vi khác ở đây bao gồm: “Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn; Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính; Bạo lực gia đình; Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi”

Đây đều là những hành vi bị pháp luật nghiêm cấm, đối với hành vi bạo lực gia đình, pháp luật có một văn bản riêng “Luật phòng chống bạo lực gia đình” để điều chỉnh. Việc giải quyết những vấn đề liên quan đến hôn nhân còn liên quan đến các ban ngành, đoàn thể xã hội như: Hội liên hiệp phụ nữ, Mặt trận tổ quốc Việt Nam,…

Ngoài ra, đối với những hành vi vi phạm nghiêm trọng, pháp luật có những quy định trong Bộ luật hình sự để xử lý như: Tội cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, cản trở ly hôn tự nguyện; Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng; Tội tổ chức tảo hôn; Tội loạn luân,…