-->

Nhận con ngoài giá thú có cần sự đồng ý của vợ không?

Trong trường hợp người đang có vợ, chồng mà nhận con thì việc nhận con không cần phải có sự đồng ý của người kia

Hỏi: Khi đi công tác ở Đà Nẵng tôi có quan hệ bất chính với một người phụ nữ ở đây, chúng tôi có một đứa con trai, hiện tại nó đã 04 tuổi. Giờ người phụ nữ ấy muốn tôi nhận đứa bé và muốn ghi tên tôi trong giấy khai sinh của con. Tôi cũng muốn như vậy nên tuần trước tôi có về Đà Nẵng làm thủ tục nhận con và ghi tên tôi trên giấy khai sinh của con. Thế nhưng cán bộ xã ở đây lại từ chối và nói với tôi rằng phải có được sự đồng ý bằng văn bản của vợ tôi hiện tại (tức người vợ hợp pháp trên giấy đăng ký kết hôn). Đề nghị Luật sư tư vấn, cán bộ xã yêu cầu tôi làm vậy có đúng theo quy định của pháp luật không? (Nguyễn Hoàng - Bắc Giang)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thị Yến - Tổ tư vấn pháp luật Hôn nhân và Gia đình của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Điều 91 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định quyền nhận con: “1. Cha, mẹ có quyền nhận con, kể cả trong trường hợp con đã chết. 2. Trong trường hợp người đang có vợ, chồng mà nhận con thì việc nhận con không cần phải có sự đồng ý của người kia”.

Nhận con là một trong những quyền của cha, mẹ được pháp luật ghi nhận. Không một cá nhân, cơ quan, tổ chức nào được phép ngăn cản, cấm đoán việc họ thực hiện quyền này. Theo quy định của pháp luật, trong trường hợp của anh mặc dù anh đang có vợ nhưng anh muốn nhận con thì việc nhận con không cần phải có sự đồng ý của vợ anh. Việc cán bộ xã yêu cầu phải có sự đồng ý của vợ anh bằng văn bản là không đúng theo quy định của pháp luật.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật Hôn nhân và Gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.