Nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
Hỏi: Tôivà chồng kết hôn năm 2010 và có bé gái 03 tuổi. Chồng tôikhông có công việc ổn định, đi làm xa ở Sài Gòn. Tuy nhiên, hơn một năm nay không về thăm giađình, cũng không gửi tiền về nuôi con. Giờ tôimuốn ly hôn nhưng chồng không chịu cũng không về.Đề nghị Luật sư tư vấn, tôi cóđược đơn phương lý hôn khi không có mặt chồng và giành quyền nuôi con không?(Thu Thủy - Hà Nội)
Luật gia Ngô Đức Cường - Tổ tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Thứ nhất: Chị có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn
Căn cứ vào khoản 1Điều 52 Luật hôn nhân và gia đình 2014, quy định về quyền yêu cầu ly hôn
"Điều51. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn
1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn".
"Điều 56. Ly hôn theo yêu cầu của một bên
1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hônnếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ củavợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được".
Theo quy định này thì nếu như chồng chị không đồng ý lý hôn chị có thể làm đơn đơn phương ly hôn gửi lên Tòa án nhân dân cấp huyện nơi mà chồng chị đang cư trú để yêu cầu Tòa án giải quyết, và trường hợp này chị phải chứng minh được mâu thuẫn của vợ chồng trầm trọng theo hướng dẫn tại mục 8 Nghị quyết số02/2000/NQ-HĐTP:
"8. Căn cứ cho ly hôn (Điều 89)
a. Theo quy định tại khoản 1 Điều 89 thì Toà án quyết định cho ly hôn nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài được, mục đích của hôn nhân không đạt được.
a.1. Được coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi:
- Vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
- Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau, như thường xuyên đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
- Vợ chồng không chung thuỷ với nhau như có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình;
a.2. Để có cơ sở nhận định đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được, thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm trọng như hướng dẫn tại điểm a.1 mục 8 này. Nếu thực tế cho thấy đã được nhắc nhở, hoà giải nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình hoặc vẫn tiếp tục sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi ngược đãi hành hạ, xúc phạm nhau, thì có căn cứ để nhận định rằng đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được.
a.3. Mục đích của hôn nhân không đạt được là không có tình nghĩa vợ chồng; không bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng; không tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển mọi mặt."
Hồ sơ gồm:
1.Đơn xin ly hôn
2.Bản sao Giấy khai sinh của cháu bé;
3.Bản sao Giấy CMND, sổ hộ khẩu của chị và của chồng chị ;
4.Bản chính Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn.Trường hợp không có bản chính Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn, thì chị phải xin xác nhận của UBND cấp xã, phường, thị trấn nơi đã đăng ký kết hôn.
5. Giấy tờ chứng minh về tài sản như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ( nếu có).
Về đơn xin ly hôn chị có thể lên mạng in mẫu đơn này về hoặc xuống Tòa án nhân dân cấp huyện nơi chị đang cư trú để mua mẫu đơn này và điền các thông tin theo mẫu.
Sau khi hoàn thành xong hồ sơ, chị sẽ gửi hồ sơ đến Tòa án nhân dân cấp quận, huyện, nơi chồng chị đang làm việc và cư trú tại đấy theo như khoản 1 điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.
"Điều35.Thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ
1. Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Toà án theo lãnh thổ được xác định như sau:
a) Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này";
Nếu như chị không biết được chồng chị hiện đang cư trú ở đâu thì chị có thể gửi đơn đến Tòa án nhân dân cấp quận, huyện, nơi mà chồng chị làm việc, cư trú cuối cùng hoặc nơi chồng chị có tài sản. Theo quy định tại điểm akhoản 1 điều 36 Bộ Luật tố tụng dân sự.
"Điều36.Thẩm quyền của Toà án theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu
1. Nguyên đơn có quyền lựa chọn Toà án giải quyết tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động trong các trường hợp sau đây:
a) Nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết";
Thứ hai: Vấn đề liên quan đến quyền nuôi con.
Nếu như con chị chưa tròn 3 tuổi tức là chưađủ 36 tháng tuổi thì chị sẽ là người có quyền trực tiếp nuôi contheo quy định tại khoản 3 điều 81 luật hôn nhân và gia đình năm 2014 :
"Điều 81Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con".
Còn nếu như con chị đã đủ 3 tuổi thì chị và chồng chị có quyền ngang nhau trong việc đòi quyền nuôi con. Để được quyền nuôi con chị sẽ chứng minh trước Tòa về mức thu nhập, sức khỏe, thời gian,tình cảm của chị dành cho con và chồng chị là không có việc làm ổn định, gần một năm nay không quan tâm đến hai mẹ con cũng không về thăm cháu. Chị có thể chứng minh theo các hướng như vậy để Tòa án sẽ cân nhắc và xem xét cho chị có quyền nuôi con hay không.
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận