-->

Luật sư tư vấn quyền sử dụng đất thừa kế

Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

Hỏi: Mẹ tôi được cậu ruột tôi cho đất. Khi bà mất không để lại di chúc. 3 anh em chúng tôi thỏa thuận chia đều. Khi lấy vợ, tôi về quê vợ và để lại đất cho các anh sử dụng.Các anh tôi đã lần lượt bán phần đất của mình. Nhưng giờ anh thứ 2 của tôi đã làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở phần đất mà tôi được chia. Vì ở xa và không còn sống ở quê lâu năm nên tôi không hề biết việc đó. Vậy luật sư cho tôi hỏi việc làmcủa anh tôi có hợp pháp không? Tôi có được thừa hưởng phần đất mà anh em tôi đã chia nhau trước đây không? (Thanh Bình - Hà Nam)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thành Đạt - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Mẹ bạn trước khi mất không để lại di chúc. Theo điều 675 Bộ luật Dân sự, di sản mà mẹ bạn để lại là ngôi nhà sẽ được chia theo pháp luật. Những người thừa kế theo pháp luật theo Điều 676 Bộ luật Dân sự gồm:

- Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

- Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

- Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

Từ quy định trên, cả bạn và các anh bạn đều là một trong những người được hưởng thừa kế theo pháp luật của bà bạn. Bạn có quyền đòi lại phần di sản được hưởng và việc anh bạn làm giấy làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên mảnh đất thuộc quyền thừa kế của bạn là không đúng quy định của pháp luật.

Bạn có thể thực hiện một trong những cách sau để đòi lại quyền lợi của mình:

-Nếu việc chia di sản của mẹ bạn đã được lập thành văn bản xác định rõ ràng diện tích từng phần đất mà mỗi người được hưởng thì bạn có thể căn cứ vào đó mà khởi kiện tranh chấp về đất đai theo quy định của bộ luật tố tụng dân sự 2004 hoặc bạn có thể khiếu nại quyết định của văn phòng đăng ký đất đai nơi đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh bạn theo quy định của luật khiểu nại 2011.

-Nếu thỏa thuận chia di sản chỉ được nói bằng miệng, không có văn bản gì thì sẽ có hai trường hợp như sau:

Trường hợp 1: Còn thời hiệu khởi kiện tranh chấp thừa kế.

Quy định về thời hiệu khởi kiện về thừa kế tại Ðiều 645 Bộ luật dân sựnhư sau:

“Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.

Theo quy định trên, sau thời hạn 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế (thời điểm người để lại di sản chết), người thừa kế không còn quyền khởi kiện thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác; và sau thời hạn là 3 năm, cá nhân, tổ chức không còn quyền khởi kiện yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại.

Trường hợp 2: Nếu hết thời hiệu khởi kiện:

Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTPngày 10/8/2004 và hướng dẫn như sau:

- Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:

+ Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.

+ Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thỏa thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.

+ Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.

- Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản.

Do vậy, nếu các đồng thừa kế gửi đơn khởi kiện đến tòa án nhưng nội dung khởi kiện là yêu cầu giải quyết việc chia tài sản chung của các đồng thừa kế thì tòa án sẽ thụ lý đơn; trong trường hợp này, tòa án sẽ áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết.

Khi đó bạn đã có bản án của tòa án về chia di sản rồi thì bạn tiền hành khởi kiện đòi lại đất từ anh trai bạn hoặc khiếu nại quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của văn phòng địa.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.