Không đăng ký kết hôn khi chia tài sản giải quyết như thế nào?

Trường hợp không đăng ký kết hôn, tài sản được giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó

Hỏi: Gia đình nhà em có người anh lấy vợ và sinh được 2 cháu,1 trai và 1 gái nay cả 2 cháu cũng đang học lớp 7 và 8. Nhưng trong quá trình chung sống đã xảy ra mâu thuẫn nên vợ của anh ấy đã làm đơn ra tòa đòi ly hôn. Cho đến nay tòa án mới giải quyết là anh trai tôi phải bồi thường về căn nhà cấp 4 của 2 người xây dựng trước đó với số tiền bằng 35 triệu đồng và phải trả tiền hồ sơ thẩm phán là 2.5 triệu đồng. Riêng về phần đất đai thì anh trai tôi cũng phải cắt cho chị ấy là 200m2. Về phần con cái thì 2 đứa trẻ đều theo mẹ. Tôi được biết thêm là anh chị ấy lúc lấy nhau không đăng ký kết hôn và về phần đất đai là của bố mẹ tôi cho anh tới thời điểm bây giờ vẫn chưa có bìa đỏ. Như vậy tòa án xử như vậy có đúng không? (Nguyễn Huân - Hưng Yên)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Phan Thùy Dung - Tổ tư vấn pháp luật Hôn nhân và Gia đình của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Theo Mục 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10 về việc thi hành luật hôn nhân và gia đình có quy định như sau:"b) Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 01 năm 1987 đến ngày 01 tháng 01 năm 2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 01 tháng 01 năm 2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Toà án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.Từ sau ngày 01 tháng 01 năm 2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng;c) Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu có yêu cầu ly hôn thì Toà án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Toà án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết".

Do bạn chỉ cung cấp thông tin về việc vợ chồng anh bạn không đăng kí kết hôn mà không nói rõ việc vợ chồng anh bạn chung sống với nhau từ thời điểm nào, nhưng căn cứ vào quy định trên thì nếu vợ chồng anh bạn chung sống với nhau trước ngày 03/01/1987 mà có đủ các điều kiện đăng kí kết hôn theo pháp luật nhưng không đăng kí kết hôn thì vẫn được pháp luật công nhận là vợ chồng nên thủ tục ly hôn sẽ theo quy định của luật hôn nhân và gia đình. Còn nếu trường hợp chung sống với nhau từ ngày 03/01/1987 trở đi mà vẫn chưa đăng kí kết hôn thì khi có yêu cầu ly hôn tòa án sẽ không công nhận hai người là vợ chồng và giải quyết vấn đề tài sản, nuôi con như sau: Quyền lợi của con được giải quyết như trường hợp cha mẹ ly hôn: tức là vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; nếu không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.Vậy nên, nếu xét thấy một trong hai người mà có đủ các điều kiện như: thu nhập hàng tháng, có nơi sinh sống ổn định, có thời gian chăm sóc tốt cho con,... và xem xét nguyện vọng của hai cháu muốn ở với ai thì tòa sẽ quyết định ai được quyền nuôi con. Tài sản được giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó; tài sản chung được chia theo thỏa thuận của các bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết, có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con. Còn về mảnh đất do bố mẹ cho mà chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nếu có giấy tờ chứng minh là được cho riêng mình anh bạn thì chỉ thuộc sở hữu của anh bạn, còn nếu trong giấy tờ cho tặng là cho cả hai người thì người vợ vẫn được chia phần tài sản này. Nhưng nếu không có giấy tờ chứng minh về việc cho tặng mảnh đất đó thì việc tòa chia như trên là không đúng pháp luật.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật Hôn nhân và Gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.