Luật sư tư vấn về những điểm mới cần lưu ý đối với doanh nghiệp khi thực hiện hợp đồng vay tài sản, thỏa thuận mức lãi vay trong giới hạn, trả lãi chậm.
Pháp luật dân sự tôn trọng quyền tự do thỏa thuận của các bên trong hợp đồng, nhưng các bên phải tuân theo những quy định chung của pháp luật. Theo đó, tuy cho vay là hoạt động không thường xuyên của doanh nghiệp nhưng lại mang đến nhiều rủi ro pháp lý và thương mại cho doanh nghiệp. Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11 (BLDS 2005) đang được thi hành, sẽ được thay thế bởi Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13 (BLDS 2015) có hiệu lực từ ngày 01/01/2017.
Dưới đây là những điều mới doanh nghiệp cần lưu ý trong giao kết hợp đồng vay tài sản, theo quy định của BLDS 2015:
- Không bắt buộc có lãi vay:
Một số doanh nghiệp hiểu nhầm hợp đồng vay tài sản bắt buộc phải có lãi suất, dẫn đến tâm lý ngại vay tiền của đối tác hay bạn hàng. Tuy nhiên, việc có lãi vay hay không là phụ thuộc vào thỏa thuận của các bên khi vay tiền, nên doanh nghiệp hoàn toàn có thể ký hợp đồng vay không lãi suất.
- Thỏa thuận mức lãi vay trong giới hạn:
Nếu các bên có thỏa thuận về mức lãi vay thì mức lãi này bị giới hạn. Doanh nghiệp lưu ý giới hạn lãi suất vay có sự thay đổi trong quy định của pháp luật.
Theo BLDS 2005, lãi suất vay do các bên thoả thuận, nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng. Việc xác định lãi suất trần khá phức tạp đối với doanh nghiệp, dẫn đến các bên thường thỏa thuận lãi suất quá cao hoặc quá thấp.
Điều 468 BLDS 2015 qui định về lãi xuất trong Hợp đồng vay tài sản như sau:
“1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.2. Trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.”
Theo BLDS 2015, trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay. Có thể thấy, mức lãi tăng lên nhiều so với quy định cũ; thế nên phụ thuộc vào khả năng tài chính và mức độ tin tưởng giữa các bên, doanh nghiệp cần cân nhắc kỹ về mức lãi suất vay trong hợp đồng vay.
Quy định mới cũng bổ sung chế tài trong trường hợp lãi suất thỏa thuận vượt quá 20%/năm, thì mức lãi này không có hiệu lực, và các bên sẽ áp dụng mức lãi trong mức giới hạn của luật định.
- Trả lãi chậm trả là bắt buộc:
Khi doanh nghiệp cho vay không có lãi, chủ yếu là sự hỗ trợ, giúp đỡ của bên cho vay với bên vay, nên rất hiếm trường hợp các bên thỏa thuận về việc trả lãi đối với khoản nợ chậm trả khi đến hạn. Tuy nhiên, các bên cũng cần lưu ý kể cả khi không có thoả thuận, pháp luật vẫn có quy định đối với khoản tiền chậm thanh toán, trong trường hợp vay không có lãi:
Theo BLDS 2005, nếu không có thỏa thuận thì bên vay không phải trả lãi cho khoản chậm trả.
Theo BLDS 2015, khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất 10% (được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn).
- Áp dụng mức lãi chậm trả theo thỏa thuận:
Đối với trường hợp doanh nghiệp cho vay có lãi, quy định pháp luật thay đổi theo hướng có lợi hơn cho bên cho vay tiền, cụ thể như sau:
- Theo BLDS 2005, dù các bên có thỏa thuận về mức lãi chậm trả, thì vẫn áp dụng theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ. Theo BLDS 2015, khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi theo lãi suất vay trong hợp đồng chứ không theo lãi suất cơ bản như BLDS 2005:
Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả, trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất 10% (được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn).
Nếu không có thỏa thuận, lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả.
- Có thể thấy tiền lãi bên vay phải trả theo BLDS 2015 lớn hơn so với quy định cũ do lãi suất các bên thỏa thuận thường cao hơn lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước.
Luật gia Nguyễn Bích Phượng - tổ tư vấn pháp luật doanh nghiệp của Công ty Luật TNHH Everest, tổng hợp
Khuyến nghị:
- Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
- Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi đây có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
- Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 19006198, E-mail: [email protected], [email protected].
Bình luận