-->

Gia đình hai vợ, một chồng có được không?

Theo quy định của luật HN&GĐ, người đang có vợ hoặc có chồng không được sống chung như vợ chồng với người khác. Không những thế, theo Điều 147 BLHS trong một số trường hợp việc sống chung như vợ chồng với người khác bị coi là tội phạm.

Hỏi: Vợ tôi bị bệnh nặng. Trong thời gian này, một người phụ nữ đã giúp đỡ chúng tôi rất nhiều. Nay, tôi và người phụ nữ đó có quan hệ tình cảm. Được sự đồng ý của vợ, người phụ nữ đó đã chuyển về sống chung với gia đình tôi. Đề nghị Luật sư tư vấn, việc chúng tôi chung sống như vậy có được không khi chúng tôi sống với nhau rất hạnh phúc (Mạc Văn Nông - Thái Nguyên).

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Trần Thị Thanh Tình - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy địnhcấm các hành vi sau đây:

"Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ” (điểm c khoản 2 Điều 5).

Nghị định số 110/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24.09.2013 quy đinh, phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: "b) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;c) Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ" (điểm b và điểm c khoản 1 Điều 48).

Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 (BLHS), quy định: “Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm” (khoản 1 Điều 147).

Thông tư Số: 01/2001/TTLT-BTP-BCA - TANDTC-VKSNDTC, chỉ có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này trong trường hợp sau đây: “Hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng gây hậu quả nghiêm trọng. Hậu quả nghiêm trọng có thể là làm cho gia đình của một hoặc cả hai bên tan vỡ dẫn đến ly hôn, vợ hoặc chồng, con vì thế mà tự sát,...”.

Trường hợp anh nêu, mặc dù được sự đồng ý của vợ anh, nhưng việc anh sống chung đồng thời với vợ và người phụ nữ khác không những phá vỡ thuần phong mỹ tục Việt Nam, mà còn là hành vivi phạm quy định của pháp luật về chế độ hôn nhân một vợ một chồng.Người vi phạm(anh và người phụ nữ sống chung)có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý hình sự, tùy thuộc vào mức độ vi phạm.Chúng tôi giả thiết, hành vi vi phạm này của anh chưa tới mức gây hậu quả nghiêm trọng(làm cho gia đình của một hoặc cả hai bên tan vỡ dẫn đến ly hôn, vợ hoặc chồng, con vì thế mà tự sát,...), thìanh và người phụ nữ vi phạm vẫn bị phạt theo quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều 48 nghị định 110/2013/NĐ-CP.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.