-->

Đã làm đám cưới nhưng chưa đăng ký kết hôn, có ly hôn được không?

Mặc dù đã làm đám cưới nhưng không đăng ký kết hôn thì việc kết hôn không có giá trị pháp lý. Vì thế, khi nộp đơn yêu cầu ly hôn, Tòa án sẽ thụ lý và ra quyết định không công bố quan hệ vợ chồng.

Hỏi: Chúng tôi đã làm đám cưới nhưng chưa đăng ký kết hôn. Nay chồng tôi nhiều lần xúc phạm danh dự của gia đình tôi nên tôi muốn ly hôn. Nhờ Luật sư tư vấn, tôi cần thực hiện những thủ tục gì? (Linh Trâm)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Trần Bảo Ngọc - Tổ tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Điều 9 Luật hôn và gia đình năm 2014 quy định về đăng ký kết hôn như sau:"Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch. Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý. 2. Vợ chồng đã ly hôn muốn xác lập lại quan hệ vợ chồng thì phải đăng ký kết hôn" (khoản 1).

Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về thụ lý đơn yêu cầu ly hôn như sau:"1. Tòa án thụ lý đơn yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. 2. Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này"

Như vậy, mặc dù đã làm đám cưới nhưng không đăng ký kết hôn nên việc kết hôn của anh (chị) không có giá trị pháp lý. Vì thế, khi nộp đơn yêu cầu ly hôn, Tòa án sẽ thụ lý và ra quyết định không công bố quan hệ vợ chồng.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.