Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
Hỏi: Ông nội của cha tôi (cụ cố tôi) và người em gái cùng sống chung trên một mảnh đất. Cụ cố tôi mất (1944), cha tôi sống cùng với người em gái của cụ cố tôi cho tới năm 2002 thì người em gái của cụ cố tôi mất. Cả 2 người này đều không để lại di chúc.Cha tôi lấy mẹ tôi và sinh 7 người con đều sống với người em gái của cụ cố tôi đến lúc bà cụ ấy mất (2002). Gia đình tôi mãi cho đến năm 2011 mới làm sổ đỏ cho mảnh đất trên. - Bà cụ em gái của ông cố tôi nói trên vẫn còn 01 người con gái đã lấy chồng và có nhiều người con. Nay sau khi bà cụ em gái ông cố tôi mất (2002) thì người con gái và các người cháu đã có những cử chỉ giành giật với mảnh đất cha và gia đình tôi đang đứng tên sổ đỏ. Cho tôi hỏi như vậy cha tôi có quyền kiện họ và giành lại mảnh đất thuộc về mình hay không? Và thủ tục như thế nào? (Thùy Linh - Hải Phòng)
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật gia Nguyễn Thành Đạt - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Theo thông tin bạn cung cấp thì thời điểm ông nội và người em của ông đều mất nhưng không để lại di chúc nên toàn bộ phần di sản sẽ được chia theo pháp luật. Theo đó, bà cụ em gái của ông cố bạn mất có thêm một người con nên người con này sẽ được hưởng phần thừa kế từ bà cụ đó dựa trên quy định của pháp luật là hoàn toàn chính xác. Cụ thể, Điều 676 Bộ luật dân sự 2005 quy định:
"1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản".
Thứ hai, liên quan tới thời hiệu khởi kiện
Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về thời hiệu khởi kiện về thừa kế như sau:
"Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
Như vậy, theo quy định thời hiệu khởi kiện yêu cầu phân chia di sản tối đa là 10 năm. Nhưng thời điểm bà cụ mất là năm 2002 tính đến thời điểm hiện nay đã 14 năm. Do đó,hiện nay con của bà cụ mới yêu cầu phân chia thì đã hết thời hiệu và sẽ không được Tòa ánthụ lý giải quyết và đương nhiên quyền sử dụng đất màgia đình bạn đứng tên từ 2011 đến nay sẽ không bị ảnh hưởnggì, không ai có quyền đòi lại quyền sử dụng đất đó từ gia đình bạn. Trừ trường hợp quy định tại mục 2.4 Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP. Cụ thể:
"2.4. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế
a) Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:
a.1. Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.
a.2. Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thảo thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.
a.3. Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.
b) Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản.
Khuyến nghị:
- Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6218.
- Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận