-->

Có phải chia tài sản cho con sau khi ly hôn?

Pháp luật về hôn nhân và gia đình chưa có quy định về việc bắt buộc cha mẹ khi ly hôn phải chia tài sản cho con cái cũng như tỷ lệ phân chia tài sản cho con. Việc chia hay không chia hoàn toàn phụ thuộc vào sự thỏa thuận của vợ chồng anh chị.

Hỏi: Vợ chồng tôi có hai con, một cháu 6 tuổi và một cháu 13 tuổi. Đề nghị Luật sư tư vấn, nếu chúng tôi ly hôn thì có phải chia tài sản cho các con hay không? (Trịnh Hân - Bình Dương)

y
>>> Luật sưtư vấn pháp luậtqua tổng đài (24/7) gọi: 19006198

Luật gia Trần Thị Yến - Tổ tư vấn pháp luật HN&GĐ của Công ty Luật TNHH Everest -trả lời:

Chúng tôi trích dẫn một số quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 để chị tham khảo, như sau:
“Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan” (khoản 1 Điều 81).
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con” (khoản 2 Điều 82).
Hiện nay pháp luật về hôn nhân và gia đình chưa có quy định về việc bắt buộc cha mẹ khi ly hôn phải chia tài sản cho con cái cũng như tỷ lệ phân chia tài sản cho con. Việc chia hay không chia hoàn toàn phụ thuộc vào sự thỏa thuận của vợ chồng anh chị.Tuy nhiên, do con của anh chị chưa thành niên (một cháu 6 tuổi và một cháu 13 tuổi), nên căn cứ vào các quy định kể trên, mặc dù ly hôn nhưng chị và chồng chị vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các con. Đồng thời, người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

Khuyến nghị:
  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.