Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này
Điều53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về thụ lý đơn yêu cầu ly hôn như sau: “ 1. Tòa án thụ lý đơn yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. 2. Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này”.
Điều15 Luật HN&GĐ quy định về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn như sau: “ Quyền, nghĩa vụ giữa nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng và con được giải quyết theo quy định của Luật này về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con”.
Điều16 Luật HN&GĐ quy định về giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn như sau: “ 1. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan. 2. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập”.
Theo như chị trình bày, nếu anh và chị chưa đăng ký kết hôn mà nếu gửi
đơn yêu cầu ly hôn tới Tòa án thì Tòa án vẫn thụ lý và tuyên không công
nhận quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật.
Về tranh chấp tài sản chung và con chung giữa các bên sẽ được giải quyết
theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 Luật HN&GĐ. Thứ nhất, về con chung, chị có thể tham khảo bài viết dưới đây. Con của chị đã 5 tuổi, nên không có đặc quyền gì cho chị kể cả trường hợp con mang họ mẹ. Thứ hai, về chia tài sản chung của hai người khi chung sống như vợ chồng với nhau mà không đăng ký kết hôn. Trường hợp này, các bên phải có nghĩa vụ chứng minh tài sản đang tranh chấp là tài sản chung hay tài sản riêng của các bên. Nếu chứng minh được tài sản đang tranh chấp là tài sản chung thì theo nguyên tắc là sẽ chia đôi, tuy nhiên, có lưu ý tới quá trình tạo dựng tài sản của các bên. Còn, nếu chứng minh được tài sản đang tranh chấp là tài sản riêng, thì tài sản riêng thuộc về ai thì sẽ chia cho người đó.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật Hôn nhân và Gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận