Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế
Hỏi:Ông Bà tôi có mảnh đất là tài sản chung của ông bà, có trước năm 1986. Năm 1996 Ông tôi bệnh mất không có để lại di chúc. Ông Bà có 7 người con: 2 nam 5 nữ, (khi Ông mất 2 dì út chưa đủ 18 tuổi, Mẹ tôi và dì thứ 2 đã lấy chồng). Sau khi Ông mất, mọi người đồng ý chia mảnh đất đó làm 3 cho Bà và 2 Cậu, nhưng Cậu lớn không đồng ý đòi chia làm 2 cho 2 Cậu. Mọi người sợ Cậu lớn quậy phá nên để chia 2, và sau2 Cậu đã đăng ký quyền sử dụng cho mảnh đất của mình. Nay dì tôi thấy không công bằng, muốn chia lại tài sản theo thừa kế tài sản không di chúc. Theo tôi biết thời hiệu khởi kiện chia tài sản thừa kế không di chúc là 10 năm, nay đã hết. Nhưng tài sản thừa kế đó là tài sản chung của ông bà, nay Bà còn sống. Hỏi còn khởi kiện chia tài sản thừa kế không di chúc nữa không? Và mảnh đất đó 2 Cậu đã đăng ký quyền sử dụng đất tên mình rồi và Cậu bé đã bán đi 1 nửa mảnh đất của mình. Hỏi còn khởi kiện chia tài sản thừa kế không di chúc nữa không? Nếu chia được sẽ chia như thế nào? ( Phạm Thị Mai - Hải Phòng)Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật gia Phạm Thị Mai Phương – Tổ tư vấn pháp luật thừa kế – Công ty Luật TNHH Everest – trả lời:
Thứ nhất,về thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế, theo quy định tại Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 thì: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế...". Đến nay, thời hiệu khởi kiện thừa kế đã hết, vì vậy, nếu muốn khởi kiện chia di sản thừa kế bạn chỉ có thể khởi kiện việc dân sự tại Tòa án để Tòa án chia di sản theo hình thức tài sản chung.
Thứ hai,bởi vì trước đó những người trong gia đình đã có thỏa thuận rằng mảnh đất sẽ được chia cho hai cậu của bạn, ở đây chúng tôi hiểu rằng việc thỏa thuận cho phép này đã được lập thành văn bản và đã được công chứng, chứng thực công nhận sự thỏa thuận này. Nên sau đó, một trong hai cậu của bạn đã bán đi một nửa mảnh đất của mình là hợp pháp và những người có quyền thừa kế sẽ không được hưởng di sản này nữa bởi đã từ chối nhận di sản trước đó.
Nếu không có tồn tại bất cứ bằng chứng gì để chứng minh việc từ chối nhận di sản thì những người đồng thừa kế hoàn toàn có thể gửi đơn tới Tòa án yêu cầu được phần di sản. Đồng thời, việc một trong những người cậu của bạn đã bán một nửa mảnh đất của mình mà không có văn bản từ chối nhận di sản thì người đó sẽ phải bù lại phần tiền tương ứng với số tiền đã đem bán một nửa mảnh đất đó.
Thứ ba,đây là tài sản chung của ông bà bạn có trong thời kỳ hôn nhân, căn cứ theo khoản 2 Điều 66 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, cụ thể như sau:
"Điều66. Giải quyết tài sản của vợ chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết
2. Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế."
Vì vậy, trong trường hợp này chỉ được chia một nửa số tài sản của ông bà bạn (vì bà bạn vẫn còn sống). Sau khi xác định được số di sản được chia thừa kế thì những người sau đây sẽ được hưởng thừa kế theo pháp luật là 7 người con của ông bà bạn và bà bạn. Tổng sẽ được chia nửa số tài sản đó cho 8 người thuộc hàng thừa kế thừa kế thứ nhất, nửa số tài sản còn lại vẫn thuộc sở hữu là của bà bạn, những người cùng hàng thừa kế được hưởng di sản bằng nhau, theo quy định của Bộ Luật Dân sự năm 2005 về chia thừa kế theo pháp luật.
"Điều676.Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản."
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận