Trường hợp người chết không để lại di chúc, di sản thừa kế được chia theo pháp luật
Hỏi: Năm 2001, mẹ chồng tôi có cho vợ chồng tôi một miếng đất thổ cư. Sau đó, vợ chồng tôi được cấp “giấy đỏ” và đã cất nhà ở ổn định. Mới đây, chồng tôi mất đột ngột, không để lại di chúc. Thấy vậy, mẹ chồng tôi có ý định đòi lại miếng đất trên. Nếu tôi không đồng ý trả đất, mẹ chồng tôi có quyền kiện ra tòa hay không? (Hoài Vương - Hà Nội)
Luật gia Nguyễn Văn Nam - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 27 Luật hôn nhân gia đình 2000 về tài sản chung vợ chồng thì:
"Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất”.
Như vậy, theo như thông tin bạn cung cấp, năm 2001 mẹ chồng đã cho vợ chồng bạn mảnh đất đó và hiện nay thửa đất cũng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên cả 2 vợ chồng bạn. Do đó, quyền sử dụng đất và căn nhà đó được xác định là tài sản chung của hai vợ chồng.
Sau khi người chồng mất thì mẹ chồng cũng không thể đòi lại mảnh đất đã cho vợ chồng bạn, tuy nhiên người mẹ có thể đòi quyền thừa kế di sản do chồng bạn để lại đối với mảnh đất nêu trên.
Mảnh đất hiện nay là tài sản chung của hai vợ chồng nên khi người chồng mất đi, tài sản sẽ được chia là đôi, 1 phần là tài sản riêng của bạn, 1 phần là di sản thừa kế của người chồng để lại sẽ được chia cho những người thừa kế của chồng bạn. Trường hợp này chồng bạn mất đột ngột và không để lại di chúc nên di sản thừa kế sẽ được chia theo pháp luật. Điều 676 Bộ luật dân sự quy định:
"1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Nhưng người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản".
Như vậy, bạn và mẹ chồng sẽ là hàng thừa kế thứ nhất, mẹ chồng bạn hoàn toàn có thể kiện ra tòa để đòi phần thừa kế của mình đối với phần đất của chồng bạn. Phần di sản của chồng bạn sẽ được chia đều cho những người ở hàng thừa kế này gồm mẹ chồng và bạn (cùng những người ở hàng thừa kế thứ nhất khác nếu có).
Khuyến nghị:
- Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
- Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận