Điều 676 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về những người thừa kế theo pháp luật
Hỏi: Ông A và bà B là vợ chồng hợp pháp có tài sản chung là 600 triệu, bà B có tài sản riêng là 180 triệu, 2 người có con chung là C 17 tuổi, D 15 tuổi.Bà B có con riêng là E 20 tuổi. Hãy chia tài sản của bà B trong trường hợp sau:TH 1: trước khi chết bà B lập di chúc hợp pháp cho M (em họ) 50 triệu, từ thiện 50 triệu.TH 2: cho M (em họ) 100 triệu, quỹ từ thiện 200 triệu (Trần Loan - Hà Nam)
Luật gia Nguyễn Văn Nam - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Theo như bạn trình bày thì ông A và bà B là vợ chồng hợp pháp có tài sản chung là 600 triệu, bà B có tài sản riêng là 180 triệu, Sau khi bà B chết về nguyên tắc tài sản chung giữa ông A và bà B sẽ được chia đôi, như vậy tổng di sản mà bà B để lại chia thừa kế sẽ là 480 triệu.
* Trường hợp 1: trước khi chết bà B lập di chúc hợp pháp cho M (em họ) 50 triệu, từ thiện 50 triệu:
Theo như bạn trình bày thì bà B khi chết chỉ để lại di chúc cho M và cho từ thiện như vậy phần di sản còn lại của bà B sẽ được chia theo pháp luật theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 675 Bộ luật Dân sự.
Bà B lập di chúc hợp pháp cho M (em họ) 50 triệu, từ thiện 50 triệu, di sản thừa kế của bà B để lại chia cho A, C, D, E sẽ là: 480 - 100 = 380 triệu.
Điều 676 Bộ luật Dân sự quy định:
"1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản".
Như vậy, di sản chia cho A, C, D, E là: A = C = D = E = 380 : 4 = 95 triệu.
Theo như bạn trình bày thì ông A là chồng hợp pháp của bà B và ông bà có hai người con chưa thành niên là C 17 tuổi, D 15 tuổi, điều 669 Bộ luật Dân sự quy định:
"Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động".
Trong trường hợp này 95 triệu đã lớn hơn 2/3 một suất thừa kế theo pháp luật như vậy, Tòa sẽ thực hiện chia thừa kế theo di chúc của bà B, những di sản còn lại sẽ được chia theo pháp luật như trên.
* Trường hợp 2: cho M (em họ) 100 triệu, quỹ từ thiện 200 triệu.
Theo như bạn trình bày thì bà B khi chết chỉ để lại di chúc cho M và cho từ thiện như vậy phần di sản còn lại của bà B sẽ được chia theo pháp luật theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 675 Bộ luật Dân sự.
Bà B lập di chúc cho M 100 triệu, quỹ từ thiện 200 triệu, di sản thừa kế bà để lại cho A, C, D, E sẽ là: 480 - 300 = 100 triệu.
Điều 676 Bộ luật Dân sự quy định:
"1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản".
Như vậy, di sản chia cho A, C, D, E là: A = C = D = E = 100 : 4 = 25 triệu.
Theo như bạn trình bày thì ông A là chồng hợp pháp của bà B và ông bà có hai người con chưa thành niên là C 17 tuổi, D 15 tuổi, điều 669 Bộ luật Dân sự quy định:
"Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động."
Trong trường hợp này, 25 triệu chưa bằng 2/3 suất của một ngườithừa kế theo pháp luật: (480 : 4) x 2/3 = 80 triệu. Vì vậy, Tòa sẽ chia thừa kế như sau:
A = C = D = 80 (tổng di sản cả ba người nhận là 240 triệu)
di sản còn lại là: 480 - 240 = 240 triệu Tòa sẽ ra quyết định chia cho E, M và quỹ từ thiện sao cho phù hợp nhất có thể là chia đều thành ba phần hoặc cũng có thể chia theo tỷ lệ.
Khuyến nghị:
- Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
- Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận