Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe con người là một trong những trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015.
Sức khỏe của con người là đối tượng được pháp luật bảo vệ. Người nào có hành vi xâm phạm đến sức khỏe của người khác, tùy thuộc vào hậu quả và mức độ nguy hiểm cho xã hội mà sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Điều 58 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: "1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác. 2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác. 3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường."
(i) Có thiệt hại xảy ra trên thực tế.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ được đặt ra khi có thiệt hại trên thực tế. Việc xác định thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm được quy định tại Điều 590 Bộ luật dân sự như sau: “1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm: (a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại; (b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại; (c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại; (d) Thiệt hại khác do luật quy định. 2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định”.
Như vậy, người xâm phạm đến sức khỏe của người khác ngoài việc phải bồi thường thiệt hại về vật chất cho người bị xâm phạm còn phải bồi thường một khoản tiền do tinh thần bị xâm phạm. Mức bồi thường về vật chất sẽ được tính dựa trên thực tế, còn mức bồi thường do tinh thần bị xâm hại sẽ do các bên thỏa thuận với nhau. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được với nhau về mức bồi thường thì có thể khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền để giải quyết. Tòa án sẽ dựa trên các điều kiện thực tế để đưa ra mức bồi thường hợp lý, mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm là không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
Hành vi trái pháp luật là hành vi thực hiện không đúng với quy định của pháp luật, có thể là hành vi làm những điều mà pháp luật cấm hoặc hành vi không làm những điều mà pháp luật buộc phải làm. Việc bồi thường thiệt hại không được đặt ra trong trường hợp người có hành vi xâm phạm không có lỗi hoặc hành vi đó không vi phạm quy định của pháp luật (Ví dụ: Do lỗi của người bị hại, phòng vệ chính đáng).
(iii) Thiệt hại là do hành vi xâm phạm sức khỏe trái pháp luật gây ra.
Người xâm phạm đến sức khỏe của người khác chỉ bồi thường những thiệt hại do hành vi xâm phạm sức khỏe gây ra chứ không có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do những nguyên nhân khác. Ví dụ: A bị B xâm phạm đến sức khỏe, phải nằm bệnh viện điều trị 02 tuần, thời gian nằm viện 02 tuần đó là trong khoảng thời gian A nghỉ làm vì tay bị thương do tai nạn lao động. Như vậy, B không phải bồi thường thu nhập thực tế về khoản lương của A trong khoảng thời gian 02 tuần A nằm điều trị trong bệnh viện.
(iv) Phải có lỗi của người gây ra thiệt hại
Người gây ra thiệt hại chỉ phải bồi thường khi họ có lỗi trong việc gây ra thiệt hại. Có 2 hình thức lỗi theo quy định của pháp luật là Lỗi cố ý và lỗi vô ý. Lỗi cố ý là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra (Ví dụ: Hành vi cố ý đánh người khác bị thương). Lỗi vô ý là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được (Ví dụ: Vi phạm pháp luật về giao thông đường bộ gây tai nạn giao thông làm người khác bị thương).
Nguyên tắc bồi thường thiệt hại
(i) Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
(ii) Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.
(iii) Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.
(iv) Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.
(v) Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình.
Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại
Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm (Điều 588 Bộ luật dân sự năm 2015).
Luật gia Nguyễn Thị Phương Hoa - Phòng tư vấn pháp luật trực tuyến của Công ty Luật TNHH Everest, tổng hợp.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật đất đai mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận