-->

Tư vấn trường hợp người được hưởng di sản thừa kế không phụ thuộc di chúc

Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó...

Hỏi: Ông A (bạn của tôi) có vợ là bà B, có con là C (1999), D (2001) và E (2003). Năm 2013, ông A lập di chúc cho bạn là M hưởng toàn bộ tài sản, khoảng2.400.000.000 đồng. Năm 2014, ông A chết. Bà M kiện bà B và các con của ông A (C, D, E) để đòi chia toàn bộ di sản. Nhờ luậttư vấn cho tôi, phần di sản mà những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông A có được hưởng không? (Văn Hoan - Quảng Nam)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Văn Nam - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Căn cứ vào Điều 669 Bộ luật dân sự năm 2005 (BLDS), trường hợp nêu trên có những người thừa kếkế không phụ thuộc̣c vào nội dung di chúc:

"Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:

1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động".

Ông A mất vào năm 2012, vào thời điểm đó cả ba con C, D, E đều chưa đủ 18 tuổi, vậy vợ là bà B và con C, D, E đều là những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.

Và Khoản 1 Điều 676 BLDS quy định về hàng thừa kế thứ nhất:

"a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;"

Vì câu hỏi của anh (chị) không nêu rõ phần di sản ông A để lại là tài sản chung hay tài sản riêng, vậy nên chúng tôi sẽ chia ra hai trường hợp:

- Trường hợp thứ nhất: di sản ông A để lại là thuộc sở hữu của riêng ông A:

+ Di chúc không hợp pháp: Áp dụng Điều 676BLDS:

Lúc này di sản của ông A được chia theo pháp luật tức là:

B =C = D = E = 2.400.000.000/4 = 600.000.000

+ Di chúc hợp pháp: Áp dụng Điều 669:

Một suất thừa kế theo pháp luật là 600.000.000, mà một người thừa kế được hưởng không phụ thuộc vào nội dung di chúc bằng 2/3 suất thừa kế. Vậy:

B =C = D = E = 2/3 x 600.000.000 = 400.000.000đồng.

Bà M được hưởng:

M = 2.400.000.000 - (400.000.000 x 4) = 800.000.000đồng.

- Trường hợp thứ hai: di sản ông A để lại là sở hữu chung cùng với vợ mình là bà B:

Vậy ông A chết đi thì di sản riêng của ông A là:

2.400.000.000/2 = 1.200.000.000đồng.

+ Di chúc không hợp pháp:Áp dụng Điều 676BLDS:

B = C = D = E = 1.200.000.000/4 = 300.000.000đồng.

Vậy C = D = E = 300.000.000đồng.

B = 300.000.000 + 1.200.000.000 = 1.500.000.000đồng.

+ Di chúc hợp pháp:Áp dụng Điều 669BLDS:

Một suất thừa kế theo pháp luật là 300.000.000đồng.

mà một người thừa kế được hưởng không phụ thuộc vào nội dung di chúc bằng 2/3 suất thừa kế. Vậy

B =C = D = E = 2/3 x 300.000.000 = 200.000.000đồng.

Bà M được hưởng:

M = 1.200.000.000 - (200.000.000 x 4) = 400.000.000 đồng.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.