-->

Hợp đồng lao động hết hạn, người lao động được báo trước không?

Người sử dụng lao động phải có trách nhiệm thông báo bằng văn bản về thời điểm chấm dứt hợp đồng cho người lao động ít nhất 15 ngày trước ngày hợp đồng lao động hết hạn.

Hỏi: Như mọi khi tôi đến công ty làm việc thì quản đốc phân xưởng nói là tôi không cần đi làm nữa vì có thông báo là hợp đồng lao động của tôi đã hết thời hạn. Đề nghị Luật sư tư vấn, hết hạn hợp đồng nhưng công ty không thông báo trước là đúng hay sai? (Gia Phượng - Hà Tĩnh).
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Bùi Ánh Vân - Tổ tư vấn pháp luật lao động của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Lao động năn 2012 về trách nhiệm của người sử dụng lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động như sau:
“1. Ít nhất 15 ngày trước ngày hợp đồng lao động xác định thời hạn hết hạn, người sử dụng lao động phải thông báo bằng văn bản cho người lao động biết thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động.”

Như vậy, người sử dụng lao động phải có trách nhiệm thông báo bằng văn bản về thời điểm chấm dứt hợp đồng cho người lao động ít nhất 15 ngày trước ngày hợp đồng lao động hết hạn.

Trường hợp của anh (chị), việc công ty anh chấm dứt hợp đồng lao động khi hết hạn hợp đồng mà không báo trước là vi phạm quy định của pháp luật; công ty của anh (chị) có thể bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi trên theo quy định tại Khoản 1 Điều 7 Nghị định 95/2013/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng về vi phạm quy định thực hiện hợp đồng lao động

Khuyến nghị:
  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.