Có được chấm dứt hợp đồng sau khi đã bị xử lý kỷ luật?

Thời hiệu xử lý kỷ luật là 24 tháng, kể từ thời điểm công chức có hành vi vi phạm pháp luật cho đến thời điểm người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền ra thông báo bằng văn bản về việc xem xét xử lý kỷ luật.

Hỏi: Em có một người bạn làm nhân viên tín dụng của Ngân hàng, bạn của em vi phạm qui định của Ngân hàng (cũng khá nghiêm trọng và có liên quan tới pháp luật). Sau đó, bạn của em đã bị xử lý kỷ luật. Hiện tại, bạn của em muốn xin nghỉ việc nhưng bạn ấy đang thắc mắc không biết mình có thể nghỉ việc được không? Em được biết theo qui định của Luật Lao động thì sau 45 ngày kể từ ngày nộp đơn xin thôi việc, người lao động có quyền được nghỉ. Vậy trong trường hợp của bạn em thì như thế nào? Sau khi bị xử lý kỷ luật rồi, bạn em còn có thể bị truy cứu pháp luật nữa không? (Đặng Xuân Lan - Yên Bái)



>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Ngô Đức Cường - Tổ tư vấn pháp luật lao động của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Do bạn không nói rõ bạn của chị đang làm việc tại Ngân hàng có thuộc biên chế nhà nước hay không , tức là bạn chị là nhân viên làm việc theo hợp đồng lao động bình thường hay là viên chức làm việc theo hợp đồng làm việc, hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Do vậy, chúng tôi chia ra hai trường hợp như sau:

Thứ nhất, bạn chị là nhân viên làm việc theo hợp đồng lao động: Theo quy định tại Điều 37 Bộ Luật Lao động năm 2012 thì quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động căn cứ vào loại hợp đồng. Cụ thể như sau: “Đối với trường hợp người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trong những trường hợp sau đây: a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động; b) Không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động; c) Bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động; d) Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động; đ) Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước; e) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền; g) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định theo các trường hợp trên thì người lao động phải báo cho người sử dụng lao động biết trước: a) Ít nhất 3 ngày làm việc đối với các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và g ; b) Ít nhất 30 ngày nếu là hợp đồng lao động xác định thời hạn; ít nhất 03 ngày làm việc nếu là hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng đối với các trường hợp quy định tại điểm d và điểm đ; c) Đối với trường hợp quy định tại điểm e thời hạn báo trước cho người sử dụng lao động được thực hiện theo thời hạn quy định tại Điều 156 của Bộ luật lao động; Đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày, trừ trường hợp quy định tại Điều 156 của Bộ luật lao động”.

Như vậy đối với trường hợp của ban chị, chị không nói rõ là bạn chị đã ký kết hợp đồng lao động với ngân hàng là loại hợp đồng không xác định thời hạn hay hợp đồng xác định thời hạn. Nếu trong trường hợp bạn chị làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn thì có thể chấm dứt hợp đồng lao động và phải báo trước cho người sử dụng lao động biết trước 45 ngày. Trong trường hợp bạn chị làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn thì bạn chị không được tự ý chấm dứt hợp đồng lao động mà phải dựa trên các căn cứ như trên và thời hạn báo trước cho người sử dụng lao động là 30 ngày. Đối với trường hợp bạn chị làm việc theo hợp đồng làm việc thì việc xin thôi việc này phải căn cứ vào Luật Viên chức năm 2010. Cụ thê được quy định tại khoản 4, 5, 6 Điều 29 Luật Viên chức: “4. Viên chức làm việc theo hợp đồng làm việc không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng nhưng phải thông báo bằng văn bản cho người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập biết trước ít nhất 45 ngày; trường hợp viên chức ốm đau hoặc bị tai nạn đã điều trị 06 tháng liên tục thì phải báo trước ít nhất 03 ngày. 5. Viên chức làm việc theo hợp đồng làm việc xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng trong các trường hợp sau: a) Không được bố trí theo đúng vị trí việc làm, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm các điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng làm việc; b) Không được trả lương đầy đủ hoặc không được trả lương đúng thời hạn theo hợp đồng làm việc; c) Bị ngược đãi; bị cưỡng bức lao động; d) Bản thân hoặc gia đình thật sự có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng; đ) Viên chức nữ có thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở chữa bệnh; e) Viên chức ốm đau hoặc bị tai nạn đã điều trị từ 03 tháng liên tục mà khả năng làm việc chưa hồi phục. 6. Viên chức phải thông báo bằng văn bản về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc cho người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập biết trước ít nhất 03 ngày đối với các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, đ và e khoản 5 Điều này; ít nhất 30 ngày đối với trường hợp quy định tại điểm d khoản 5 Điều này”. Theo đó nếu bạn chị làm việc theo hợp đồng không xác định thời hạn thì được chấm dứt hợp đồng lao động mà không cân có lý do và phải báo trước cho người đứng đầu Ngân hàng nơi bạn chị làm việc biết trước ít nhất 45 ngày. Nếu bạn chị làm việc theo hợp đồng có xác định thời hạn thì chỉ được chấm dứt nếu thuộc trong các trường hợp quy định tại khoản 5. Bạn chị phải viết đơn xin thôi việc gửi cho người đứng đầu ngân hàng trước ít nhất ba ngày đối với các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, đ và e khoản 5 Điều này; ít nhất 30 ngày đối với trường hợp quy định tại điểm d khoản 5 Điều này.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.