-->

Chuyển chỗ làm có được trả sổ bảo hiểm không?

Nếu người lao động chấm dứt hợp đồng theo quy định của pháp luật và tuân thủ thời hạn báo trước thì người lao động có quyền được trả lại sổ bảo hiểm.

Hỏi: Chồng em công tác tại ngân hàng Đại dương được 3 năm, trong ba năm đó chồng em đóng bảo hiểm xã hội đầy đủ, do nhiều lý do nên chồng em xin chuyển công tác sang bên ngân hàng khác. Thời điểm chồng em xin nghỉ việc thì hợp đồng lao động của chồng em cũng sắp hết hạn , trước khi hết hạn hợp đồng chồng em có thông báo nghỉ việc. Đến nay là tròn 1 tháng chồng em sang cơ quan mới làm việc nhưng bên cơ quan cũ gây khó khăn không muốn trả sổ bảo hiểm cho chồng em, và đến thời điểm hiện nay thì không có thông báo hay quyết định gì về việc chồng em thôi việc. Vậy thưa Luật sư: theo luật bảo hiểm xã hội và bộ luật lao động quy định như thế nào về trường hợp người sử dụng không trả sổ bảo hiểm cho người lao động, và có cần phải có quyết định chấm dứt HĐLĐ thì chồng em mới được lấy lại sổ bảo hiểm hay không? Trường hợp của chồng em thì xử lý như thế nào? Nếu cơ quan gây khó khăn thì em phải làm đơn kiến nghị như thế nào? (Lương Văn Minh - Hà Nam)


>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thị Tâm - Tổ tư vấn pháp luật lao động của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Theo những thông tin mà anh (chị) cung cấp , chồng anh (chị) đã làm việc tại ngân hàng Đại Dương được 3 năm, và hợp đồng giữa chồng anh (chị) với ngân hàng là loại hợp đồng xác định thời hạn. Vì vậy, khi chồng anh (chị) chấm dứt hợp đồng trước thời hạn (tức là trước khi hợp đồng kết thúc) thì cần phải viện dẫn 1 trong số các lý do được quy định tại khoản 1 điều 37 BLLĐ và cần phải thông báo trước cho ngân hàng biết theo đúng thời gian mà pháp luật quy định. "Điều 37. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động: 1. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trong những trường hợp sau đây: a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động; b) Không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động; c) Bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động; d) Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động; đ) Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước; e) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền; g) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục. 2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 1 Điều này, người lao động phải báo cho người sử dụng lao động biết trước: a) Ít nhất 3 ngày làm việc đối với các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và g khoản 1 Điều này; b) Ít nhất 30 ngày nếu là hợp đồng lao động xác định thời hạn; ít nhất 03 ngày làm việc nếu là hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng đối với các trường hợp quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1 Điều này; c) Đối với trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều này thời hạn báo trước cho người sử dụng lao động được thực hiện theo thời hạn quy định tại Điều 156 của Bộ luật này. 3. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày, trừ trường hợp quy định tại Điều 156 của Bộ luật này".
"Điều 43. Nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật: 1. Không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động. 2. Nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người sử dụng lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước. 3. Phải hoàn trả chi phí đào tạo cho người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này”.
Giả sử chồng anh (chị) có lý do thuộc điều 37 và tuân thủ thời hạn báo trước thì chồng anh (chị) có quyền được hưởng trợ cấp thôi việc và được trả lại sổ bảo hiểm . Trong trường hợp chồng anh (chị) đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật ( không tuân thủ các điều trên ) thì chồng anh (chị) phải bồi thường cho công ty theo quy định tại điều 43 BLLĐ."
Sau khi chị hoàn thành bước trên mà ngân hàng vẫn không trả lại sổ bảo hiểm cho chồng chị , thì chị có thể gửi đơn khiếu nại tới giám đốc trực tiếp của chồng chị yêu cầu giám đốc ra quyết định chấm dứt HĐLĐ và hoàn lại những giấy tờ công ty đang giữ của chồng chị .

Khuyến nghị:
  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.