-->

Về việc mua bán đất không được tách thửa đất

Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của UBND cấp xã.

Hỏi: Tôi dự định mua 1 miếng đất ở Bình Dương, vì không có nhiều tiền nên tôi mua 1 miếng đất có diện tích 4x14 m ở Bến Cát thông qua 1 công ty bất động sản.Đất này nếu tôi mua thì sẽ chỉ làm Hợp Đồng Thỏa Thuận Mua Bán chứ không được tách sổ riêng và phía bên cty môi giới chỉ đóng dấu công ty để xác nhận giữa bên bán và bên mua. Đất này xung quanh trồng cao su và trên giấy tờ là đất trồng cây lâu năm. Vậy xin luật sư cho biết dùm miếng đất này nếu mua thì có hợp pháp hay rủi ro gì không? (Hà Chi - TP.HCM)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Lê Thị Hồng Sơn - Tổ tư vấn pháp luật bất động sản của Công ty Luật TNHH Everest- trả lời:

Theo quyết định số 49/2009/QĐ-UBND tỉnh Bình Dương vềdiện tích tối thiểu các loại đất được phép tách thửa trên địa bàn tỉnh Bình Dương như sau:

“ Diện tích đất tối thiểu đối với từng loại đất (đất ở hoặc đất nông nghiệp) được phép tách thửa đối với khu vực thị xã Thủ Dầu Một, huyện Thuận An, huyện Dĩ An được quy định:

Diện tích đất tối thiểu được tách thửa?

Diện tích tối thiểu đối với từng loại đất (đất ở hoặc đất nông nghiệp) được phép tách thửa đối với khu vực huyện Bến Cát, huyện Tân Uyên, huyện Dầu Tiếng, huyện Phú Giáo được quy định:

Diện tích tách thửa Bình dương

Do bạn mua đất trên địa bàn huyện Bến Cát và diện tích đất là 4×14m = 56m nhỏ hơn diện tích tối đa mà UBND tỉnh Bình Dương cho phép tách thửa nên trường hợp của bạn được phép tách thửa để làm sổ đỏ riêng

2.Về bản hợp đồng mua bán đất của bạn".

Căn cứ điểm a, khoản 3 điều 167 Luật đất đai 2013 , hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của UBND cấp xã. Ngoài hình thức hợp đồng nêu trên, Nhà nước không công nhận những hình thức hợp đồng khác.

Theo quy định của pháp luật, hợp đồng vi phạm hình thức không đương nhiên bị vô hiệu. Nó chỉ bị tuyên bố vô hiệu khi một trong các bên hoặc người thứ ba yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do không tuân theo quy định về hình thức của hợp đồng. Theo khoản 1, Điều 136, BLDS 2005 quy định:

"1.Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại các điều từ Điều 130 đến Điều 134 của Bộ luật này là hai năm, kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập."

Trong khi đó, hợp đồng vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức được quy định tại điều 134, BLDS 2005, cũng thuộc vào trường hợp điều chỉnh của quy định trên. Do đó, có thể hiểu rằng hợp đồng chỉ bị vô hiệu về hình thức, khi trong thời hạn 2 năm kể từ ngày hợp đồng được xác lập mà một trong các bên hoặc người thứ 3 yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng đó vô hiệu. Qúa thời hạn trên, không ai có quyền khởi kiện yêu cầu hợp đồng tuyên bố vô hiệu về hình thức nữa, đương nhiên nó vẫn có hiệu lực.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật bất động sản mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.