-->

Tư vấn về việc công bố di chúc

Di sản thừa kế

Hỏi: Mẹ tôi mất năm 2014. Trước khi mất, mẹ tôi sở hữu 1/2 và phần di sản của ba tôi trong phần đồng sở hữu (ba mất năm 2009, không để lại di chúc). Mẹ tôi có để lại di chúc cho tôi toàn bộ phần tài sản của bà. Xin trình bày thêm, trong Giấy CNQSDĐ ghi tên mẹ tôi (bà PhạmThị A) và các đồng sở hữu của ông Trần Văn B.Gia đình tôi có 05 anh em, nếu có một người anh đã chết thì 01 phần đồng sở hữu của người đó có được tính không? Tôi được biết, nếu sau 10 năm không có nhu cầu phân chia tài sản, thì phần đồng sở hữu sẽ thành tài sản chung.

Vấn đề tôi muốn biết cụ thề là: Hình thức thủ tục công bố di chúc như thế nào? Sau khi khai nhận di sản thừa kế, tôi có thể sang tên tôi như hiện trạng của mẹ tôi không?

Vậy nếu thành tài sản chung thì một phần đồng sở hữu của người anh đã chết có được công nhận không? (Thúy Vy - Hải Phòng)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Văn Nam - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Thời điểm công bố di chúc là sau khi người lập di chúc chết. Việc công bốđược thực hiện theo hình thức cung cấp bản sao di chúc tới tất cả những người có liên quan tới nội dung di chúc. Người nhậnđược bản sao di chúc có quyền yêu cầuđối chiếu với bản gốc di chúc.

Việc công bố di chúc được thực hiện theo quyđịnh tại Điều 672 Bộ luật dân sự năm 2005 như sau:

"Điều 672.Công bố di chúc

1. Trong trường hợp di chúc bằng văn bản được lưu giữ tại cơ quan công chứng thì công chứng viên là người công bố di chúc.

2. Trong trường hợp người để lại di chúc chỉ định người công bố di chúc thì người này có nghĩa vụ công bố di chúc; nếu người để lại di chúc không chỉ định hoặc có chỉ định nhưng người được chỉ định từ chối công bố di chúc thì những người thừa kế còn lại thoả thuận cử người công bố di chúc.

3. Sau thời điểm mở thừa kế, người công bố di chúc phải sao gửi di chúc tới tất cả những người có liên quan đến nội dung di chúc.

4. Người nhận được bản sao di chúc có quyền yêu cầu đối chiếu với bản gốc của di chúc.

5. Trong trường hợp di chúc được lập bằng tiếng nước ngoài thì bản di chúc đó phải được dịch ra tiếng Việt và phải có công chứng."

Mẹ của anh (chị) mất để lại di chúc cho anh (chị) thừa kế toàn bộ phần tài sản của bà. Sau khi anh (chị) làm thủ tục tục khai nhận di sản thừa kế thì anh (chị) có thể làm thủ tục sang tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

Thứ nhất, về việckhai nhận di sản thừa kế.

Anh (chị) có thể công chứng văn bản khai nhận di sản thừa kế là quyền sở hữu nhà ở tại bất kỳ tổ chức công chứng nào trên địa bàn nơi có bất động sản.

Hồ sơ bao gồm :

- Phiếu yêu cầu công chứng theo mẫu;

- Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở;

-Giấy chứng tử của bố mẹ bạn;

- Giấy tờ tùy thân của những người thừa kế;

- Những giấy tờ khác (như: giấy khai sinh, giấy kết hôn …).

Sau khi kiểm tra hồ sơ thấy đầy đủ, phù hợp quy định của pháp luật, cơ quan công chứng tiến hành niêm yết công khai tại trụ sở Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi thường trú trước đây của người để lại di sản; trong trường hợp không có nơi thường trú, thì niêm yết tại Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi tạm trú có thời hạn của người đó. Nếu không xác định được cả hai nơi này, thì niêm yết tại Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi có bất động sản của người để lại di sản.

Sau 15 ngày niêm yết, không có khiếu nại, tố cáo gì thì cơ quan công chứng chứng nhận văn bản thừa kế. Các đồng thừa kế (6 anh em nhà bạn) có thể lập Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế (theo Điều 49 Luật Công chứng) hoặc Văn bản khai nhận di sản thừa kế (theo Điều 50 Luật Công chứng).

Thứ hai, về việcsang tên quyền sở hữu nhà ở.

Sau khi công chứng văn bản thừa kế, bạn thực hiện thủ tục đăng ký quyền tài sản tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Phòng tài nguyên và môi trường cấp huyện nơi có đất.

* Hồ sơ bao gồm :

+ Bản chính văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế có công chứng;

+ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

+ Giấy tờ khác (giấy tờ tùy thân, giấy chứng tử …).

Văn phòng đăng ký nhà đất sau khi nhận hồ sơ sẽ có trách nhiệm thẩm tra hồ sơ, làm trích sao hồ sơ địa chính; gửi số liệu địa chính cho cơ quan thuế để xác định nghĩa vụ tài chính (nếu có); chỉnh lý giấy chứng nhận đã cấp hoặc thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận đối với trường hợp phải cấp mới giấy chứng nhận; Sau khi bên nhận thừa kế thực hiện xong nghĩa vụ tài chính, Văn phòng đăng ký nhà đất có trách nhiệm trao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chủ sở hữu.

Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:

"Điều 645.Thời hiệu khởi kiện về thừa kế

Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế."

Như vậy, theo quy định tại Điều 645 Bộ luật dân sự thì thời hiệu khởi kiện để yêu cầu chia di sản thừa kế là 10 năm. Khi thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế đã hết, thì các đồng thừa kế không có quyền khởi kiện. Chỉ khi các đồng thừa kế không có tranh chấp về thừa kế và chưa chia di sản thừa kế thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các đồng thừa kế.

Theo thông tin anh (chị) cung cấp, thì mẹ của anh (chị) để lại di chúc choanh (chị)toàn bộ phần tài sản của bà. Như vậy thì không có đồng thừa kế trong trường hợp này và chỉ mìnhanh (chị)được hưởngdi sản thừa kế của mẹ củaanh (chị), nếu trong những người con không được nhận di sản thừa kế không có người nào chưa thành niên hoặc ngườiđã thành niên mà không có khả năng lao động.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.