-->

Tranh chấp hợp đồng đại lý

Nếu bạn có các bằng chứng, giấy tờ khác chứng minh có việc mua bán giữa hai bên (như thư từ trao đổi giữa hai bên, biên bản giao nhận hàng, giao nhận tiền trong đó ghi rõ nội dung hàng hóa mua bán thì có thể khởi kiện ra tòa án

Hỏi: Tôi làm đại lý cấp 1 cho một công ty, trong quá trình kinh doanh có mở một số đại lý cấp 2. Vấn đề nảy sinh giữa tôi và đại lý ông A như sau: Ngay thời điểm đầu, tôi và ông A có thỏa thuận miệng là bên tôi sẽ bỏ hàng cho ông A, đồng thời cho ông A nợ 1 khoảng 150 triệu đồng và tính lãi suất hằng tháng (lãi suất khi đó 1.5%/ tháng) trên 150 triệu này. Thời gian làm ăn với nhau, ông thanh toán tiền hàng sòng phẳng và sẵn sàng chịu cộng lãi hàng tháng. Đến 1 năm trước, ông không chịu tính lãi nữa, đồng thời rất ít khi mua hàng của tôi và đi mua hàng của 1 đại lý khác với giá rẻ hơn. Tôi đã rất nhiều lần thương lượng với ông A về phương án trả nợ nhưng ông A đều tỏ ra không có thiện chí trả nợ và còn không chấp nhận khoảng tiền lãi đã được tính.Xin nhờ quý công ty tư vấn giúp tôi phương án và thủ tục giải quyết trường hợp trên? (Vũ Hải Hà - Hà Nội)

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thị Hoài Thương - Tổ tư vấn pháp luật dân sự của Công ty Luật TNHH Everest - Trả lời:

Về mặt pháp lý, điều 401 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó”.

Các quy định của Bộ luật dân sự hiện hành chỉ quy định hình thức hợp đồng mua bán nhà ở phải lập thành văn bản có công chứng hoặc chứng thực, còn hợp đồng mua bán tài sản (nói chung) không nhất thiết phải lập thành văn bản nên thỏa thuận mua bán bằng miệng giữa bạn và ông A, về nguyên tắc pháp luật, cũng được coi là hợp đồng và có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với cả hai bên.

Tuy nhiên, thực tế, những thỏa thuận bằng lời nói có giá trị chứng minh rất thấp, nếu khởi kiện ra tòa án, bạn sẽ rất khó chứng minh là đã có thỏa thuận đó cũng như các nội dung của thỏa thuận nếu ông A phủ nhận.

Theo quy định tại khoản 1, Điều 79 Bộ luật tố tụng dân sự, “người khởi kiện phải có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh yêu cầu khởi kiện của mình là hợp pháp và có căn cứ". Nếu bạn không có chứng cứ chứng minh việc mua bán, giao dịch giữa hai bên thì không thể yêu cầu tòa án giải quyết. Nếu bạn không có chứng cứ chứng minh việc mua bán, giao dịch giữa hai bên thì không thể yêu cầu tòa án giải quyết.

Vì vậy, nếu bạn có các bằng chứng, giấy tờ khác chứng minh có việc mua bán giữa hai bên (như thư từ trao đổi giữa hai bên, biên bản giao nhận hàng, giao nhận tiền trong đó ghi rõ nội dung hàng hóa mua bán và tiền trả cho việc mua bán hàng hóa đó, thậm chí là băng ghi âm các cuộc điện thoại trao đổi giữa hai bên khi phát sinh tranh chấp, hóa đơn ghi nợ…) và chứng minh được các thiệt hại thì có thể khởi kiện ra tòa án cấp huyện (nơi cư trú của người bị kiện, ở đây tức là ông A) theo điểm b, khoản 1, điều 33 và điểm a, khoản 1, điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự để yêu cầu giải quyết việc yêu cầu ông A hoàn thành nghĩa vụ trả nợ và lãi.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật dân sự mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.