-->

Chồng từ chối làm cha của con, phải làm sao?

Khi tôi sinh con, chồng tôi nghi ngờ không phải là con của mình nên dù giải thích thế nào anh cũng không đi khai sinh cho con. Vậy phải làm thế nào?

Hỏi: Tôi vừa sinh con được 03 tháng nhưng chồng tôi nghi ngờ không phải là con của mình nên dù tôi giải thích thế nào cũng không đi khai sinh cho con. Chồng tôi nói, tôi đi khai sinh thì không được ghi tên anh ấy vào mục họ tên cha. Đề nghị Luật sư tư vấn, tôi có được đương nhiên ghi tên chồng mình vào phần họ tên cha của con không? (Phương Loan - Phú Thọ)

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật sư Phạm Ngọc Minh - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Luật Hôn nhân và giađình năm 2014 quyđịnh:

- Xác định cha, mẹ như sau:"1- Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng. Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân. Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng. 2- Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con phải có chứng cứ và phải được tòa án xác định" (Điều 88).

- Xác định con: “Người được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu tòa án xác định người đó không phải là con mình" (khoản 2 Điều 89).

Theo các quy định của pháp luật, đứa trẻ được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân về nguyên tắc vẫn được xác định là con chung của vợ chồng anh, chị.

Như vậy, chị có quyền lấy tên chồng chị với tư cách là cha đứa trẻ để đi đăng ký khai sinh cho con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân. Nếu không muốn nhận đứa trẻ là con, chồng chị cần có chứng cứ chứng minh và phải được tòa án xác định đứa trẻ không phải là con của chồng chị.

Khuyến nghị:
  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luậthôn nhân và gia đìnhmà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.