Nếu sau khi kết hôn, anh trai và chị dâu anh có thỏa thuận hợp nhất tài sản riêng của hai vợ chồng thành tài sản chung thì lúc này chị dâu của anh cũng có quyền đối với căn nhà
Hỏi: Giấy chứng nhận quyền sở hữu căn nhà mang tên bố mẹ, hai anh trai và tôi cấp năm 2010. Đến năm 2013 anh trai tôi lấy vợ. Nếu bán nhà, chị dâu của tôi có cần ký đồng ý bán không vì chị dâu có tên trong hộ khẩu? (Bạn đọc Thuận Thanh - Bình Dương)
Luật gia Bùi Hương Lan -Công ty Luật TNHH Everest ) - trả lời:
Bộ luật dân sự năm 2005 có nêu rõ:“Các thành viên của hộ gia đình chiếm hữu và sử dụng tài sản chung của hộ theo phương thức thỏa thuận.
Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý; đối với các loại tài sản chung khác phải được đa số thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý” (Điều 109).
Luật Hôn nhân và Gia đình quy định:“Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung” (khoản 1 Điều 33).
“Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân. Vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung” (khoản 1 Điều 43).
Theo đó, khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình thì phải có sự thỏa thuận của tất cả các thành viên trong hộ gia đình.
Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật thì Sổ hộ khẩu là căn cứ để xác định nơi thường trú của một người tại một địa chỉ nhất định, nên việc chị dâu của anh có tên trong sổ hộ khẩu không chứng minh được rằng chị dâu của anh có có quyền đối với căn nhà đó.
Đẻ xác định chị dâu có quyền với ngôi nhà hay không cần căn cứ vào phần sở hữu của anh trai anh trong căn nhà là sở hữu chung của hai vợ chông hay là sở hữu riêng của từng người. Căn cứ vào dữ liệu của anh cung cấp thì có thể thấy, căn nhà được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2010, trong khi năm 2013 anh trai anh mới kết hôn. Như vậy, có thể nói, phần sở hữu của anh trai anh trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng căn nhà là tài sản sở hữu riêng của vợ chồng. Do vậy, chị dâu anh không có quyền đối với căn nhà và khi bán nhà không cần sự đồng ý cũng như chữ ký của chị dâu anh .
Bên cạnh đó, nếu sau khi kết hôn, anh trai và chị dâu anh có thỏa thuận hợp nhất tài sản riêng của hai vợ chồng thành tài sản chung thì lúc này chị dâu của anh cũng có quyền đối với căn nhà. Vì thế, nếu trường hợp này xảy ra thì khi bán nhà cũng cần có sự đồng ý và chữ ký của chị dâu anh.
Khuyến nghị:
- Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
- Nội dung tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận