-->

Tư vấn về trường hợp người hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung di chúc

Điều 669 Bộ luật dân sự quy định những người vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật

Hỏi: Bà nội tôi có tất cả 6 người con nhưng đã mất 2 người, hiện tại còn 4 người con và trong đó 3 người thì bà nội đã chia phần đất, còn người thứ 2 thì chưa lấy phần đất và hiện đang ở trên đất bà nội. Bà nội cũng 83 tuổi và đang bệnh chỉ nằm 1 chỗ và bà vẫn còn biết. Người con gái thứ 3 của nội đang nuôi bệnh nội và nội có tiền ngân hàng thì người thứ 3 rút ra hết xây nhà. Hiện tại nội còn đất nhiều và ba tôi là người con thứ 6 có về đất của nội ở nhưng người thư 3 thì không cho ở. Bà nội thì cũng không thích ba tôi, tôi có nghe người thứ 3 đang mời luậtt sư để bà nội lập di chúcc. Vậy luật sư cho tôi hỏi bà đã trên 80 tuổi vậy còn có hành vi dân sự̣ để lập di chúc không? Hay để chính quyền chia đất? Và ba tôi có thể có phần không? (Thanh Nhàn - Hà Tĩnh)

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thành Đạt - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Thứ nhất về quyền lập di chúc.

Điều 631 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.

Theo quy định tại Điều 647 Bộ Luật dân sự thì người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.

Theo đó, bà bội của bạn trong trường hợp này không bị mắc bệnh tậm thần, vẫn có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình, do vậy, hoàn toàn có quyền lập di chúc theo quy định của pháp luật.

Khoản 3 Điều 652 Bộ luật dân sự quy định, trường hợp người lập di chúc bị hạn chế về thể chất hoặc không biết chữ thì phải được người làm chứng lập di chúc theo nguyện vọng của người đó thành văn bản và phải được công chứng hoặc chứng thực.

Thứ hai, về quyền hưởng di sản của những người không phụ thuộc vào nội dung di chúc.

Điều 669 Bộ luật dân sự quy định những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:

"1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động".


Khoản 1 Điều 643 Bộ luật dân sự quy định những người sau đây không được quyền hưởng di sản:

"a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;

b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;

c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;

d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, huỷ di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản".


Theo đó, trường hợp bà bạn lập di chúc và không cho bố bạn hưởng di sản, nếu bố bạn không còn khả năng lao động và không thuộc trường hợp thuộc khoản 1 Điều 643 Bộ luật dân sự thì theo quy định trên bố bạn vẫn được hưởng di sản bằng 2/3 suất thừa kế.

Trường hợp có tranh chấp về phân chia di sản thì những người thừa kế có quyền khởi kiện ra Tòa án nhân dân cấp huyện nơi có đất để được chia di sản thừa kế.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật hành chính mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.