Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản thừa kế.
Hỏi: Ông bà nội cháu có tất cả 8 người con, nhưng chỉ có duy nhất bố cháu là con trai, nhà cháu ở cùng ông bà. Ông nội cháu mất cách đây hơn 10 năm và không có di chúc để lại.Giờ bà cháu muốn làm di chúc sang tên sổ đỏ mảnh đất hiện tại đang ở sang cho bố cháu để bố cháu đứng tên sổ đỏ. Tuy nhiên, các chị gái của bố cháu (tức con gái của ông bà nội cháu) không đồng ý, bà cháu đã làm di chúc để lại mảnh đất đó cho bố cháu, di chúc có sự xác nhận của chính quyền địa phương. Họ bảo sẽ kiện ra Tòa án, vậy bà nội và gia đình cháu phải làm gì? Nếu chia mảnh đất đó thì chia như thế nào? Mảnh đất gồm: nhà, ao cá và vườn. (Văn Hiểu - Thanh Hóa)
Luật gia Nguyễn Văn Nam - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Khoản 1 điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình quy định:
"1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng".
Điều 219 Bộ luật Dân sự 2005 quy định:
"1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất.
2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung bằng công sức của mỗi người; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
3. Vợ chồng cùng bàn bạc, thoả thuận hoặc uỷ quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
4. Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thoả thuận hoặc theo quyết định của Toà án".
Như vậy, tất cả các tài sản có được trong thời kỳ hôn nhân của ông bà bạn đều là tài sản chung của ông bà bạn trừ trường hợp ông bà bạn có thỏa thuận khác. Về nguyên tắc, sau khi ông bạn mất, tài sản sẽ được chia đôi, một nửa thuộc sở hữu của bà bạn, bà bạn có quyền định đoạt phần tài sản đó; một thuộc nửa thuộc về ông bạn sẽ được chia thừa kế theo pháp luật (do ông bạn mất ông không để lại di chúc- quy định tại điều 675 Bộ luật Dân sự). Điều 676 Bộ luật Dân sự quy định:
"Điều 676. Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản".
Như vậy, phần tài sản của ông bạn sẽ được chia đều cho bà bạn và 8 người con của ông bạn. Nếu tài sản quá nhỏ không thể chia bằng hiện vật được thì Tòa án sẽ định giá và chia theo giá trị. Nếu bên nào nhận được tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
Khuyến nghị:
- Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
- Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận