-->

Tư vấn về thời hiệu thừa kế quyền sử dụng đất?

Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế

Hỏi: Ông bà có 7 anh chị e ở trên mảnh đất 1700m2 .Bố em, hai cô và chú A đi làm ăn xa.Ông mất năm 1975 chỉ còn chú B ở với bà tới năm 1995 thì bà mất nhưng không để lại di chúc và chú B vẫn sống trên đất mà bà để lại.Năm 2003 chú có bán đi 900m2 nhưng không có sự đồng ý của bố và chú Anhưng bố em nghĩ vì là anh em nênkhông kiện cáo gì và cũng không rõ luật đất đai nên không có tranh chấp cứ nghĩ đất ông bà để lại là có phần mình. Năm 2014 bố và chú B có thoả thuận là đưa bố 250 triệulàm bìa ở nơi bố đang sống nên bố em có kí vào tờ giấy viết tay cho chú sử dụng đất. Đến nay khi bố hỏi tiền làm bìa chú nói không có nên bố emmuốn lấy phần đất của bố thì có được không. Em cũng có tìm hiểu qua là thời gian khởi kiện đã hết. Nhưng em thấy có điểm lại nói là chia tài sản thừa kế sau khi hết thời điểm khởi kiện là như thế nào. Nhờ Luậtsư tư vấn hướng giải quyết cho gia đình em. (Thu Hà - Hà Nội)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Văn Nam - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Điều 639 Bộ luật dân sự 2005 quy định về thời hiệu khởikiện về thừa kế như sau "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế". Theo thông tin bạn cung cấp thì bà bạn mất năm 1995 nên thời hiệu khởi kiện thừa kế trong trường hợp này đã hết. Tuy nhiên, Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP quy định như sau:

" 2.4. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế

a) Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:

a.1. Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.

a.2. Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thảo thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.

a.3. Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.

b) Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản".

Như vậy, ông bà bạn đã chết và không để lại di chúc, diện tích đất do chú bạn đang sử dụng chưa được chia thừa kế nên diện tích đất này sẽ là tài sản chung của bảy đồng thừa kế. Việc phân chia tài sản chung khi không có di chúcsẽ được thực hiện như sau:

- Nếu các đồng thừa kế thỏa thuận về phần mõi người được hưởng thì việc phận chia tài sản chung được thực hiện theo thỏa thuận của họ

- Nếu không có thỏa thuận thì sẽ thực hiện theo các quy địng của pháp luật về chia tài sản chung.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.