-->

Tư vấn pháp luật: Đất là tài sản riêng, nhà ở gắn liền với đất

Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân,...

Hỏi: Trước khi kết hôn tôi có mua đất (có giấy tờ mua bán và có xác nhận của chính quyền địa phương). Sau khi kết hôn vợ chồng chúng tôi có xây một ngôi nhà trên lô đất đó để ở và có một con gái năm nay 9 tuổi. Đến bây giờ do cuộc sống không hợp nhau và quyết định xin ly hôn (Chúng tôi có thỏa thuận vợ tôi sẽ nuôi con, tôi có trách nhiệm đóng góp kinh tế). Như vậy thì việc chia tài sản sẽ được chia như thế nào? (Nguyễn Toàn - Hà Nội)

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Đại Hải - Tổ tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình của Công ty Luật TNHH Everest - Trả lời:

-Xác định tài sản chung, riêng của vợ và chồng
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định :
Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.
Theo đó, những tài sản hình thành trong thời kì hôn nhân là tài sản chung trừ trường hợp vợ hoặc chồng được tặng cho thừa kế riêng.
Trường hợp này, bạn thực hiện mau mảnh đất đó trước thời kì hôn nhân nên về nguyên tắc quyền sử dụng mảnh đất là tài sản riêng của bạn( trừ khi bạn có thỏa thuận nhập quyền sử dụng đất vào khối tài sản chung ). Về ngôi nhà, ngôi nhà được xây dựng trong thời kì hôn nhân, do sức đóng góp của cả vợ và chồng nên ngôi nhà này là tài sản chung của hai vợ chồng.
-Chia tài sản chung khi ly hôn:
Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn:“1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.Trongtrường hợpchế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập.d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.5. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.6. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn Điều này”.
Theo đó, khi ly hôn mà hai bên tự thỏa thuận được việc chia tài sản thì Tòa án sẽ tôn trọng thỏa thuận này và ra quyết định công nhận thỏa thuận đó được ghi trong bản án ly hôn. Tuy nhiên, nếu hai bên không tự thỏa thuận được về việc chia tài sản chung thì yêu cầu tòa án chia. Về nguyên tắc tài sản chung của hai vợ chồng được chia đôi, có xem xét tới yếu tố khác trong việc duy trì tạo lập, cũng như hoàn cảnh hai bên, đảm bảo quyền lợi của các bên. Nếu tài sản chung của hai bên là hiện vật và không thực hiện việc chia được thì bên nào nhận phấn tài sản có giá trị lơn hơn sẽ thanh toán cho bên kia.
Trường hợp của bạn, tài sản chung là căn nhà và không thể chia đôi căn nhà, vậy nên một trong hai bên nhận căn nhà đó và sẽ thanh toán giá trị phần căn nhà mà cho người kia được chia.
Tại Thông tư 01/2016/TTLT- TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP quy định:
Điều 7. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn
"6. Khi giải quyết chia tài sản khi ly hôn, Tòa án phải xem xét để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Ví dụ: Khi chia nhà ở là tài sản chung và là chỗ ở duy nhất của vợ chồng, trong trường hợp không chia được bằng hiện vật thì Tòa án xem xét và quyết định cho người vợ hoặc chồng trực tiếp nuôi con chưa thành niên, con bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự nhận hiện vật và thanh toán giá trị tương ứng với phần tài sản được chia cho người chồng hoặc vợ nếu người vợ hoặc chồng có yêu cầu”.
Theo quy định này, nếu trường hợp tài sản chung là chỗ ở duy nhất của hai vợ chồng và không chia được bằng hiện vật thì tòa xem xét và quyết định cho người nào trực tiếp thực hiện việc nuôi con chưa thành niên, con bị hạn chế năng lực hoặc không có khả năng lao động được nhận hiện vật và thanh toán giá trị đối với phần tài sản được chia cho bên còn lại.
Như vậy, trường hợp này ngôi nhà là chỗ ở duy nhất của cả hai vợ chồng, mà người vợ là người trực tiếp nuôi con và người vợ có yêu cầu được nhận hiện vật và thanh toán giá trị phần còn lại mà bạn được chia thì tòa án sẽ xem xét và đưa ra quyết định để đảm bảo quyền lợi của đứa con 9 tuổi.
Tuy nhiên, ngôi nhà là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất. Mà quyền sử dụng đất lại là tài sản riêng của bạn.Trường hợp này, nếu người vợ muốn nhận ngôi nhà và thanh toán giá trị tài sản cho chồng thì người vợ buộc phải mua lại cả quyền sử dụng đất đứng tên người chồng. Lúc đó mới đảm bảo quyền lợi của tất cả các bên. Nếu bạn không muốn bán lại mảnh đất đứng tên mình vàkhông đồng ý với việccho người vợ nhận ngôi nhà và thanh toán phần còn lại cho bạn vì nó ảnh hưởng tới các quyền sử dụng, định đoạt mảnh đất đứng tên riêng của bạn thì bạn có quyền yêu cầu tòa xem xét để bạn nhận ngôinhà và thanh toán phần giá trị tài sản tương ứng với phần nhà mà vợ được nhận. Lúc này tòa án sẽ phải xem xét kĩ, cân nhắc quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi đưa ra phán quyết.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.