-->

Thủ tục tố tụng khi giải quyết vụ án ly hôn?

Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng.

Hỏi: Ba mẹ cháu ly thân năm 1992 vì ba cháu có người mới, 01 mình mẹ cháu nuôi dạy 02 anh em cháu đến bây giờ 02 anh em cháu đã có gia đình riêng. Nhưng cuối năm 2014, ba cháu gửi hồ sơ lên toà án xin ly dị, và đến nay toà án đã giải quyết cho ly dị (xử mẹ cháu văng mặt, vì mẹ cháu bị tai biến mạch máu não không đủ điều kiện sức khoẻ để đến toà án), vấn đề tài sản (01 căn nhà) toà án cho 02 bên tự giải quyết, nhưng thực tế như sau:1. Từ lúc ba cháu đi là năm 1992 đến nay ba cháu không đóng góp gì vào tài sản này, lúc ba cháu đi nhà cháu chỉ là một căn nhà nhỏ được xây dựng chừng 35 m vuông, đến nay sau nhiều lần tu sửa mẹ cháu đã xây dựng được 93 m vuông trên miếng đât này và hoàn thành giấy tờ nhà đất.2. Bacháu đi không cấp dưỡng và nuôi nấng 2 anh em cháu đến nay (cháu sinh năm 1991, anh cháu sinh năm 1989) Vậy bây giờ sau khi hoàn tất thủ tục ly hôn, ba cháu đòi chia tài sản là 50% giá trị căn nhà và đòi kiện ra toà nếu mẹ cháu không giải quyết chia tài sản cho ba cháu, vậy xin hỏi luật sư có hợp lí không. Nếu chia tài sản cho ba cháu thì phải giải quyết như thế nào là hợp lí và công bằng? (Ba Tư - Quảng Ninh)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Ngô Đức Cường - Tổ tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn được quy định tại Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình 2014 như sau:

"Điều 59. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn

1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.

Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.

2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:

a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;

b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.

3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.

4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.

Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.

5. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

6. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn Điều này."

Từ quy định trên, trong trường hợp của ba mẹ bạn thì tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân (vì ba mẹ bạnly thân nhưng vẫn được coi là đang trong thời kỳ hôn nhân)sẽ đượcchia đôi nhưng có tính đến các yếu tố:

- Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;

- Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

- Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

- Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.

Vì vậy, nếu mẹ bạn chứng minh được công sức đóng góp để tạo lập, sửa chữa ngôi nhà đó nhiều hơn công sức đóng góp của mẹ bạn (có thể thông qua các hóađơn, chứng từ về việc xây dựng ngôi nhà,...)thì Tòa án sẽ căn cứ vào các bằng chứng đó để xem xétphân chia tài sản cho hai bémà không phải là chia đôi nữa.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.