-->

Thắc mắc về việc công ty cho người lao động nghỉ vì tình hình khó khăn

Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động quy định tại điều 38 Bộ luật Lao động năm 2012.

Hỏi: Tôi làm trong một công ty TNHH có 06 lao động trong đó có một nữ nhân viên đang nghỉ thai sản. Tôi được ký hợp đồng không xác định thời hạn bắt đầu từ ngày 25/04/2013. Đến ngày 01/04/2014, bất ngờ Giám đốc thông báo miệng với chúng tôi là do công ty khó khăn, không có tiền trả lương nên sẽ để chúng tôi làm việc ở nhà từ ngày 02/04/2014 và sẽ trả lương tháng 4. Đề nghị Luật sư tư vấn, Công ty ra quyết định gửi chung cho toàn bộ nhân viên và bồi thường như trên là có thỏa đáng và đúng luật không? Nếu không thì chúng tôi sẽ được bồi thường như thế nào? Và riêng trường hợp nhân viên nữ nghỉ thai sản đến hết ngày 17/05/2014 thì Công ty phải giải quyết ra sao ạ? (Quang - Yên Bái)
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Phạm Văn Lâm - Tổ tư vấn pháp luật Lao động Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Bộ luật Lao động năm 2012 (BLLĐ) quy định:

Điều 38. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động

1. Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp sau đây:

a) Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động; b) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, đã điều trị 06 tháng liên tục, đối với người lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục. Khi sức khỏe của người lao động bình phục, thì người lao động được xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động; c) Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc; d) Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều 33 của Bộ luật này.

2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động người sử dụng lao động phải báo cho người lao động biết trước:

a) Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn; b) Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn; c) Ít nhất 03 ngày làm việc đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này và đối với hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng”.

Công ty chấm dứt hợp đồng lao động với anh (chị) và những người lao động khác với lí do công ty gặp khó khăn. Vì anh (chị) không nói rõ nên chúng tôi hiểu rằng khó khăn ở đây không phải vì lí do khách quan mà là do công ty làm ăn không được thuận lợi dẫn đến không có khả năng tài chính để chi trả lương cho nhân viên. Lí do này không thuộc các trường hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 38 ở trên nên việc công ty ra quyết định cho thôi việc như vậy là trái quy định của pháp luật. Mặt khác, vì hợp đồng anh (chị) kí với công ty là hợp đồng không xác định thời hạn nên nếu muốn chấm dứt hợp đồng thì công ty phải báo trước ít nhất là 45 ngày. Khi chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật công ty phải có các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 47 BLLĐ

1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết và phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày người lao động không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động. 2. Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này. 3. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động. 4. Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này, hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động. 5. Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước”.

Nếu anh (chị) đồng ý thôi việc thì có nghĩa là hai bên đã thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động và công ty phải thực hiện các nghiã vụ tài chính sau:

- Trợ cấp thôi việc tương đương với thời gian thực tế làm việc tại công ty theo điều 48 BLLĐ là nửa tháng tiền lương vì anh (chị) anh (chị) đã làm việc tại công ty 1 năm. Nếu trong thời gian làm việc anh (chị) đã tham gia bảo hiểm xã hội thì không được hưởng khoản này.

- Tiền bồi thường do vi phạm thời hạn báo trước là 45 ngày lương

Khoản 3 Điều 39. Trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

"3. Lao động nữ quy định tại khoản 3 Điều 155 của Bộ luật này..."

Khoản 3 Điều 155. Bảo vệ thai sản đối với lao động nữ

"3. Người sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với lao động nữ vì lý do kết hôn, mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp người sử dụng lao động là cá nhân chết, bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết hoặc người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động..."

Theo đó, công ty không được phép đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với lao động nữ đang trong thời gian nghỉ thai sản đến hết ngày 17/5/2014

Như vậy, từ việc chấm dứt hợp đồng lao động đến việc bồi thường công ty đều làm trái quy định của pháp luật. Nếu anh (chị) không đồng ý thôi việc hoặc không đồng ý với mức bồi thường của công ty thì có thể làm đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp theo điều 201 BLLĐ.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.