-->

Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của đơn vị sử dụng lao động?

Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp sau đây: Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động;...

Hỏi: Hiện tại công ty em có 1 trường hợp nhân viên bị tai nạn do đánh nhau dẫn đến thương tích rất nghiêm trọng và mất đi gần như toàn bộ sức lao động. Công ty em muốn chấm dứt hợp đồng với nhân viên này trong thời gian tới, nhưng hợp đồng lao động của nhân viên này vẫn còn hiệu lực.Vậy trong trường hợp này bên em có được phép chấm dứt hợp đồng với nhân viên này hay không? Nếu có thể chấm dứt hợp đồng, vậy bên công ty em có phải bồi thường hợp đồng cho nhân viên này hay không? (Đỗ Cảnh - Thái Bình)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198  Luật gia Nguyễn Thanh Hương - Tổ tư vấn pháp luật lao động của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thanh Hương - Tổ tư vấn pháp luật lao động của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Do thông tin bạn cung cấp không đầy đủ về loại hợp đồng lao động đơn vị ký với người lao động này cũng như quá trình điều trị do tai nạn của họ được bao lâu nên không thể xác định chính xác công ty có được phép chấm dứt hợp đồng lao động tại thời điểm hiện nay hay không. Tuy nhiên, tình trạng sức khỏe của người lao động bị tai nạn thương nặng gần như mất toàn bộ sức lao động, nên đơn vị có thể đối chiếu với quy định tại Điểm b, khoản 1 Điều 38Bộ luật lao động. Nếu người lao động rơi vào trường hợp này thì được quyền chấm dứt hợp đồng lao động mà không vi phạm quy định của pháp luật cũng như không có nghĩa vụ bồi thường (nhưng sẽ có nghĩa vụ báo trước theo khoản 2 Điều này và giải quyết quyền lợi, chế độtheo Điều 47 cho họ). Cụ thể: "Điều 38.1. Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp sau đây:a) Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động;b) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, đã điều trị 06 tháng liên tục, đối với người lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục.Khi sức khỏe của người lao động bình phục, thì người lao động được xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động;c) Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc;d) Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều 33 của Bộ luật này.2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động người sử dụng lao động phải báo cho người lao động biết trước:a) Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn;b) Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn;c) Ít nhất 03 ngày làm việc đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này và đối với hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng".

Trường hợp, đơn vị không thuộc trường hợp được quyền chấm dứt hợp đồng lao động nhưng vẫn chấm dứt tức đơn phương chấm dứt trái pháp luật thì có nghĩa vụ bồi thường theo quy định tại Điều 42 Luật này (ít nhất là 4 tháng tiền lương + tiền lương tương ứng số ngày không báo trước cho người lao động + trợ cấp thôi việc+ tiền lương và chốt, trả sổ bảo hiểm để họ được hưởng các quyền lợi liên quan (bảo hiểm thất nghiệp và bảo hiểm xã hội một lần)).

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.