-->

Nên thành lập công ty cổ phần hay công ty trách nhiệm hữu hạn?

Luật Doanh nghiệp 2014 không khẳng định loại hình doanh nghiệp nào là tối ưu nhất và phù hợp nhất với mọi nhà đầu tư. Để lựa chọn loại hình doanh nghiệp phù hợp nhất thì phục thuộc nhu cầu, năng lực của chủ đầu tư về huy động vốn, tổ chức quản lý, chi phí hoạt động...

Hỏi: Hiện nay tôi muốn mở một công ty chuyên sản xuất các linh kiện điện tử và đang phân vân giữa hai loại hình doanh nghiệp là công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên và công ty cổ phần. Đề nghị Luật sư tư vấn, tôi nên chọn loại hình doanh nghiệp nào? (Vũ Minh Anh - Hà Nội).

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thị Hoài Thương - Tổ tư vấn pháp luật doanh nghiệp của Công ty TNHH Everest - Trả lời:

Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014, mỗi doanh nghiệp được tổ chức theo nhiều loại hình khác nhau, mỗi loại hình doanh nghiệp đều có những điểm ưu thế và hạn chế của mình. Do đó, đối với mỗi thương nhân khi khởi nghiệp việc lựa chọn hình thức doanh nghiệp trước khi bắt đầu công việc kinh doanh là rất cần thiết và quan trọng. Sau đây là một số phân tích về những ưu điểm và hạn chế của Công ty cổ phần và Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên:

- Công ty Cổ phần:

Về ưu điểm: Thứ nhất, trong công ty cổ phần, chế độ trách nhiệm của các cổ đông là trách nhiệm hữu hạn, các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi vốn góp nên mức độ rủi do của các cổ đông không cao. Thứ hai, cơ cấu vốn của công ty cổ phần hết sức linh hoạt tạo điều kiện nhiều người cùng góp vốn vào công ty. Thứ ba, khả năng huy động vốn của công ty cổ phần rất cao thông qua việc phát hành cổ phần chào bán hoặc cổ phiếu ra công chúng, đây là đặc điểm riêng chỉ có của công ty cổ phần. Thứ tư, việc chuyển nhượng vốn trong công ty cổ phần là tương đối dễ dàng, do vậy phạm vi đối tượng được tham gia công ty cổ phần là rất rộng, ngoài ra các cán bộ công chức cũng có quyền mua cổ phiếu của công ty cổ phần.

Về nhược điểm: Thứ nhất, các cổ đông công ty cổ phần được tự do chuyển nhượng cổ phần của mình, trừ trường hợp chuyển nhượng cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập cho người không phải là cổ đông sáng lập trong 3 năm đầu tiên kể từ khi được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh. Với quy định này, mặc dù các cổ đông có thể duy trì tính thanh khoản của cổ phiếu và có thể chuyển nhượng các cổ phiếu một cách thuận tiện khi họ cần tiền mặt nhưng nó lại tạo ra một rủi ro rất lớn trong hoạt động của công ty cổ phần khi mà không hạn chế được tình trạng thâm nhập của người lạ vào công ty và khó bảo toàn được thông tin kinh doanh. Bản chất đối vốn của công ty cổ phần được thể hiện ở điểm này, khi mà cơ chế huy động, lưu thông vốn được đề cao hơn. Thứ hai, đối với công ty quy mô lớn hơn, số lượng cổ đông nhiều hơn, việc điều hành và quản lý công ty trở nên phức tạp và do đó, cần có một đội ngũ quản trị chuyên nghiệp. Từ đây, người điều hành trực tiếp công ty có thể không đồng thời là chủ sở hữu công ty. Chính vì sự phức tạp trong quá trình quản lý công ty; quan hệ giữa các cổ đông và cần minh bạch mối quan hệ giữa chủ sở hữu - người điều hành trực tiếp công ty cổ phần mà Ban kiểm soát được thành lập. Thứ ba, việc quyết định các vấn đề quan trọng dựa trên tỉ lệ phiếu bầu trong cuộc họp Hội đồng quản trị của công ty, nhiều lúc sẽ làm mất thời gian do phải triệu tập cuộc họp theo đúng thể thức luật định, dẫn đến trường hợp có những vấn đề cần giải quyết ngay nhưng không thể đưa ra được quyết định kịp thời do đó gây cản trở đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.

- Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên:

Công ty trách nhiệm hữu hạn là loại hình doanh nghiệp phổ biến nhất ở Việt nam hiện nay, đây cũng là loại hình được các nhà đầu tư lựa chọn nhiều nhất. Công ty TNHH hai thành viên trở lên mang cả đặc điểm của công ty đối nhân và cả đặc điểm của công ty đối vốn. Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có những ưu điểm và hạn chế sau:

Về ưu điểm: Thứ nhất, các thành viên công ty chỉ chịu trách nhiệm về các hoạt động của công ty trong phạm vi số vốn góp vào công ty nên ít gây rủi ro cho người góp vốn. Thứ hai, số lượng thành viên công ty TNHH không nhiều và các thành viên thường là người quen biết, tin cậy nhau, nên việc quản lý, điều hành công ty không phức tạp; chế độ chuyển nhượng vốn được điều chỉnh chặt chẽ, đó là khi một thành viên khác muốn rút phần vốn phải được sự đồng ý của thành viên trong công ty nên nhà đầu tư dễ dàng kiểm soát được việc thay đổi các thành viên, hạn chế sự thâm nhập của người lạ vào công ty, do đó việc quản lý công ty không quá phức tạp. Thứ ba, công ty có tư cách pháp nhân nên tạo được sự tin cậy của các đối tác trong hoạt động sản xuất kinh doanh.

Về nhược điểm: Thứ nhất, việc huy động vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên bị hạn chế do không có quyền phát hành cổ phần, điều này đã gây khó khăn cho công ty khi chủ đầu tư muốn huy động thêm vốn bên ngoài để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.

Từ những phân tích trên cho thấy, hai loại hình doanh nghiệp đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Luật Doanh nghiệp 2014 không khẳng định loại hình doanh nghiệp nào là tối ưu nhất và phù hợp nhất với mọi nhà đầu tư. Do đó,phụ thuộc vào nhu cầu, năng lực của anh (chị) như: khả năng huy động vốn và chia sẻ rủi ro trong kinh doanh, tổ chức quản lý và chi phí hoạt động…đồng thời tham khảo những phân tích cụ thể về ưu điểm, nhược điểm của các loại hình trên trên, sau đó chọn cho mình một loại hình công ty phù hợp nhất.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật doanh nghiệp mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.