Việckết hôn khi một trong hai bên nam nữ hoặc cả nam và nữ chưa đủ 18 tuổi là đã vi phạm quy định về điều kiện kết hôn - được coi là kết hôn trái pháp luật.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật gia Hoàng Ngọc Ánh - Tổ tư vấn pháp luật Hôn nhân và Gia đình Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Khoản 6 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 (Luật HN&GĐ) quy định: "6. Kết hôn trái pháp luật là việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết hôntheo quy định tại Điều 8 của Luật này".
Điều kiện kết hôn được quy định tại Điều 8 Luật HN&GĐ như sau: "1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây: a)Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từđủ 18 tuổi trở lên; b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định; c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự; d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này. 2. Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính".
Như vậy, việc anh và vợ kết hôn khi chưa đủ 18 tuổi là đã vi phạm quy định về điều kiện kết hôn, nên đây được coi là kết hôn trái pháp luật.
Việc kết hôn trái pháp luật sẽ bị xử lý theo quy định tại Điều 11 Luật HN&GĐ như sau: "1. Xử lý việc kết hôn trái pháp luật được Tòa án thực hiện theo quy định tại Luật này và pháp luật về tố tụng dân sự. 2. Trong trường hợp tại thời điểm Tòa án giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật mà cả hai bên kết hôn đã có đủ các điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật này và hai bên yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân đó. Trong trường hợp này, quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm các bên đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này. 3. Quyết định của Tòa án về việc hủy kết hôn trái pháp luật hoặc công nhận quan hệ hôn nhân phải được gửi cho cơ quan đã thực hiện việc đăng ký kết hôn để ghi vào sổ hộ tịch; hai bên kết hôn trái pháp luật; cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. 4. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn Điều này".
Điều 12 Luật HN&GĐ quy định về hậu quả pháp lý của việc hủy kết hôn trái pháp luật như sau: “1. Khi việc kết hôn trái pháp luật bị hủy thì hai bên kết hôn phải chấm dứt quan hệ như vợ chồng. 2. Quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con được giải quyết theo quy định về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con khi ly hôn. 3. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 16 của Luật này".
Trong trường hợp của anh, nếu có yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật giữa anh và vợ anh. Tại thời điểm này vợ anh và anh đều đã đủ điều kiện về độ tuổi để kết hôn theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp nếu cả hai vợ chồng anh yêu cầu Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân thì Tòa án sẽ công nhận quan hệ hôn nhân và quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm các bên đủ điều kiện kết hôn theo quy định. Tuy nhiên, trong trường hợp của anh, anh không muốn tiếp tục chung sống với người vợ này nữa, không muốn Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân này, thì lúc này Tòa án sẽ đưa ra quyết định về việc hủy việc kết hôn trái pháp luật. Khi việc kết hôn trái pháp luật bị hủy thì hai bên kết hôn phải chấm dứt quan hệ như vợ chồng. Quyết định của Tòa án về việc hủy kết hôn trái pháp luật sẽ được gửi cho cơ quan đã thực hiện việc đăng ký kết hôn để ghi vào sổ hộ tịch; hai bên kết hôn trái pháp luật; cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan theo quy định của pháp luật.
Như vậy, thì để giải quyết nhanh chóng anh có thể yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật theo các quy định ở trên. Quan hệ như vợ chồng giữa anh và người kia sẽ được chấm dứt.
Khuyến nghị:
- Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
- Nội dung tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận