-->

Mẹ không có việc làm có được nuôi con dưới 36 tháng tuổi sau ly hôn không?

Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con

Hỏi: Vợ chồng tôi sinh được một bé trai được hơn một tuổi. Vợ tôi không có công ăn việc làm, chỉ ở nhà làm nội trợ còn tôi có công việc ổn định. Như vậy đề nghị Luật sư tư vấn, nếu bây giờ chúng tôi ly hôn, tôi có thể giành được quyền nuôi con không? (Sơn Hà)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Lương Thị Anh Thư - Tổ tư vấn pháp luật Hôn nhân và Gia đình Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định về Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn: “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”.

Như vậy, theo quy định này, con dưới 36 tháng tuổi không phải lúc nào cũng giao cho người mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Trường hợp này của gia đình anh, do người mẹ chưa có thu nhập ổn định, có thể xem như trường hợp mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Người bố đã có thu nhập ổn định có thể đề nghị Tòa án xem xét về việc chuyển giao quyền trực tiếp nuôi con cho mình.

Ngoài ra, cha mẹ cũng có quyền tự do thỏa thuận về người sẽ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con sao cho phù hợp với lợi ích của con.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.