Khách hàng hỏi về chi trả trợ cấp thôi việc có bắt buộc đối với người sử dụng lao động hay không và quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.
Hỏi: Em vào làm việc tại công ty này là 03/09/2008, và em đã viết đơn xin thôi việc vào cuối tháng 7/2016 và có ghi rõ là em xin được thôi việc vào 31/8/2016( em đang là hợp đồng lao động không thời hạn ). Và do em đã bàn giao công việc đầy đủ và sớm hơn dự kiến (31/8/2016) nên em đã xin công ty cho em được nghỉ việc luôn từ 29/8/2015, như vậy em có vi phạm vào điều khoản " đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động" không? (Minh Hà - Hải Phòng)Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật gia Phạm Thị Mai Phương - Tổ tư vấn pháp luật lao động Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Thứ hai:Điều 37 Luật lao động 2015 về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động
1. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trong những trường hợp sau đây:a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;b) Không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;c) Bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động;d) Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động;đ) Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước;e) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền;g) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục.2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 1 Điều này, người lao động phải báo cho người sử dụng lao động biết trước:a) Ít nhất 3 ngày làm việc đối với các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và g khoản 1 Điều này;b) Ít nhất 30 ngày nếu là hợp đồng lao động xác định thời hạn; ít nhất 03 ngày làm việc nếu là hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng đối với các trường hợp quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1 Điều này;c) Đối với trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều này thời hạn báo trước cho người sử dụng lao động được thực hiện theo thời hạn quy định tại Điều 156 của Bộ luật này.3. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày, trừ trường hợp quy định tại Điều 156 của Bộ luật này".
Theo thông tin của bạn thì bạn viết đơn xin thôi việc tức là đang thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng của người lao động theo quy định của Luật lao động 2012. Bạn đã kí hợp đồng lao động không xác định thời hạn, nên khi bạn thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thì bạn phải báo cáo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày, trừ trường hợp đối vợi lao động nữ mang thai tại Điều 156 Luật lao động 2012.
Bạn không nói rõ ngày bạn nộp đơn xin thôi việc nên chung tôi chia làm hai trường hợp như sau:
Nếu từ ngày bạn xin thôi việc đến 29/8/2016 hoặc 31/8/2016 mà chưa đủ 45 ngày theo quy định của pháp luật thì việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của bạn là trái pháp luật
Vậy, nếu bạn nghỉ việc vào ngày 29/8/2016 mà chưa đủ 45 ngày thì bạn đã vi phạm vào điều khoản đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận