-->

Lỡ tặng mảnh đất cho tặng vợ mới cưới, muốn đòi lại phải làm thế nào?

Tôi giấu các con riêng chuyển quyền sử dụng đất cho vợ mới song giờ mới phát hiện đã bị cô ấy lừa dối tình cảm.

Vợ chồng tôi có mảnh đất ví trị đẹp, rộng 100 m2, sổ đỏ đứng tên mình tôi. Vợ tôi mất năm 2008, các con khi đó đã trưởng thành và có gia đình riêng. Sau đó, tôi kết hôn, chuyển quyền sử dụng mảnh đất cho vợ mới mà không cho các con biết.

Gần đây, tôi mới phát hiện đứa con chung mới chào đời giữa tôi và cô ấy lại không phải là máu mủ của mình. Tôi muốn đòi lại mảnh đất đó thì phải làm gì bây giờ?

Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài (24/7): 1900 6198
Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài (24/7): 1900 6198

Luật sư trả lời

Do bạn không nói rõ thửa đất đứng tên tài tài sản chung vợ chồng hay tài sản riêng của bạn nên chúng tôi giả định thành hai trường hợp.

Trường hợp thứ nhất, thửa đất là tài sản chung của vợ chồng bạn do được hình thành trong thời kỳ hôn nhân (dù chỉ đứng tên một mình bạn). Trường hợp này, phần di sản của vợ bạn được giải quyết theo quy định của pháp luật về thừa kế. Việc bạn tự ý định đoạt toàn bộ thửa đất mà chưa làm thủ tục khai nhận thừa kế là trái quy định của pháp luật, đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất (bố, mẹ, con) của vợ bạn. Một trong những người này có quyền khởi kiện ra tòa án nhân dân có thẩm quyền yêu cầu tòa án tuyên Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu, đồng thời yêu cầu tòa án tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hủy quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho cô ấy.

Trường hợp thứ hai, thửa đất là tài sản riêng của bạn (do có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho bạn theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014) thì bạn có toàn quyền định đoạt mà không phải thực hiện thủ tục khai nhận thừa kế, cũng không cần sự nhất trí của các con bạn.

Về việc bạn cho rằng bạn bị lừa dối, pháp luật quy định như sau:

Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 đòi hỏi chủ thể trong giao dịch dân sự phải hoàn toàn tự nguyện. Đây là một trong những điều kiện để giao dịch có hiệu lực pháp luật. Do vậy, khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.

Tuy nhiên, việc bạn bị lừa dối (đứa trẻ không phải là con bạn) có liên quan trực tiếp đến giao dịch chuyển nhượng hay không (như hai bên thỏa thuận nếu có con chung thì bạn sẽ chuyển nhượng, tặng cho thửa đất cho cô ấy) sẽ do tòa án cân nhắc, đánh giá. Nếu việc lừa dối này không liên quan trực tiếp đến việc chuyển nhượng thì về nguyên tắc đây không phải là căn cứ để tuyên giao dịch vô hiệu. Điều này đồng nghĩa bạn không thể đòi lại mảnh đất.

Bài viết được thực hiện bởi Luật gia Âu Thị Minh Nguyệt - Phòng tranh tụng của Công ty Luật TNHH Everest, Tổng đài (24/7): 1900 6198.

Khuyến nghị:
  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900 6198, hoặc E-mail:[email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.