-->

Khái niệm chủ thể của tội phạm và năng lực chịu trách nhiệm hình sự

Năng lực chịu trách nhiệm hình sự là khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi và khả năng điều khiển được hành vi ấy.


Để phù hợp với nguyên tắc có lỗi, nguyên tắc trách nhiệm cá nhân của luật hình sự cũng như phù hợp với mục đích giáo dục cải tạo của việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, chủ thể của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam hiện nay chỉ có thể là con người cụ thể.

Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự (NLTNHS), đạt một độ tuổi nhất định.

Theo khái niệm này thì chủ thể của tội phạm phải thoả mãn 2 điều kiện đó là: Có năng lực trách nhiệm hình sự và phải đạt một độ tuổi theo luật định.

Đối với một số tội phạm, chủ thể của tội phạm ngoài các dấu hiệu trên còn đòi hỏi phải có thêm các dấu hiệu khác (dấu hiệu đặc biệt - gọi là chủ thể đặc biệt) Ví dụ: Điều tra viên, Kiểm sát viên của Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, hoặc người có chức vụ quyền hạn của Tội tham ô tài sản.
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

2. Năng lực trách nhiệm hình sự (NLTNHS)

Khái niệm

NLTNHS là khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi và khả năng điều khiển được hành vi ấy (tức là khả năng có thể kiềm chế việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và có khả năng lựa chọn một xử sự khác không nguy hiểm cho xã hội).

Một người được coi là có NLTNHS phải thoả mãn đầy đủ 2 điều kiện sau:

- Một người đạt tới một độ tuổi nhất định thì có khả năng nhận thức đầy đủ về tính chất pháp lý của hành vi của mình và có đầy đủ khả năng điều khiển được hành vi phù hợp với đòi hỏi của xã hội.

- Một người ở độ tuổi trên chỉ coi là có NLTNHS nếu không mắc những bệnh làm mất hoặc hạn chế khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình.

Trong 2 điều kiện trên thì Bộ luật hình sự Việt Nam không trực tiếp quy định như thế nào là người có NLTNHS mà chỉ quy định độ tuổi phải chịu TNHS (Điều 12) và các trường hợp không có NLTNHS (Điều 13). Bằng phương pháp loại trừ này Bộ luật hình sự Việt Nam mặc nhiên thừa nhận người đã đạt độ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự là người có NLTNHS.

Do đó, trong thực tế áp dụng, các cơ quan tiến hành tố tụng cũng không phải xác định từng trường hợp người phạm tội có NLTNHS hay không mà chỉ phái xác định độ tuổi. Cá biệt nếu có sự nghi ngờ mới cần phải kiểm tra, trong trường hợp đó có NLTNHS hay không.

Như vậy: Người có NLTNHS theo luật hình sự Việt Nam là người đã đạt độ tuổi phải chịu
TNHS và không thuộc trường hợp ở trong tình trạng không có NLTNHS.

Tình trạng không có NLTNHS

Khoản 1, Điều 13 BLHS quy định: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì không phải chịu TNHS. Đối với người này phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh”.

Như vậy một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội ở trong trường hợp trên là người không có NLTNHS.

Theo quy định của điều luật thì một người ở trong tình trạng không có NLTNHS khi thoả mãn đầy đủ 3 điều kiện sau:

- Điều kiện về y học: là người mắc bệnh tâm thần (tâm thần kinh niên, động kinh, loạn thần kinh - rối loạn tâm thần nhất thời, si ngốc) hoặc các bệnh khác như: sốt rét, viêm màng não, bệnh mộng du.

- Điều kiện về tâm lý: các bệnh trên phải làm cho người đó mất hoàn toàn khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.

- Tình trạng bệnh trên phải xuất hiện tại thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Trong 3 điều kiện trên thì điều kiện 1 và điều kiện 2 phải có mối quan hệ nhân quả với nhau. Trong đó, điều kiện 1 là nguyên nhân, điều kiện 2 là kết quả.

Chú ý: Người ở trong tình trạng NLTNHS bị hạn chế (bị mất một phần khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi) thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự, chỉ được miễn một phần TNHS. Mức độ TNHS phụ thuộc vào mức độ khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi còn lại của người đó tại thời điểm thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội.

Trên thực tế xuất hiện một số trường hợp phát bệnh rối loạn nhân cách biểu hiện là khi gặp con gái trong người nóng ran lên và đã dùng dao để đâm nạn nhân. Đây có phải là trường hợp người ở trong tình trạng không có NLTNHS không?

Năng lực trách nhiệm hình sự và tình trạng say

Điều 14 BLHS quy định: “người phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích mạnh khác thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự”.

Tình trạng say có thể phân hoá ở 2 mức độ:

Mức 1: Tình trạng say làm mất hoàn toàn khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi.

Mức 2: Tình trạng say làm hạn chế một phần khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi.

Theo quy định tại Điều 14 thì trong cả hai trường hợp trên, người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự bình thường.

Cơ sở khoa học của việc quy định người phạm tội trong tình trạng say vẫn phải chịuTNHS đó là:

Thứ nhất: Trước khi say họ có NLTNHS bình thường, việc họ bị mất hoặc hạn chế NLTNHS do bị say hoàn toàn do người phạm tội, nghĩa là họ đã có lỗi với tình trạng say thì đồng nghĩa với việc họ có lỗi với việc thực hiện hành vi phạm tội. Mặc dù tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội họ bị mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi. Do vậy, trách nhiệm hình sự đặt ra đối với họ là ở thời điểm chưa say.

Thứ hai: Về mặt xã hội, việc bắt người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong tình trạng say phải chịu trách nhiệm hình sự bình thường biểu hiện thái độ của xã hội đối với tệ nạn say- là nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh nhiều hiện tượng tiêu cực khác trong đời sống xã hội trong đó có tội phạm.

Phạm tội trong tình trạng say không được coi là tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ. Nếu uống rượu để “hăng máu” để phạm tội thì được coi tình tiết tăng nặng “cố tình thực hiện tội phạm đến cùng”. (Báo cáo tổng kết năm 1995 trang 142/VB96).

Một số trường hợp phạm tội trong tình trạng say được coi là tình tiết định khung tăng nặng.

Tổ bộ môn Luật Hình sự - Khoa Luật Trường Đại học Hòa Bình,tổng hợp


  1. Nội dung trong bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (chú thích rõ trong bài viết).
  2. Bài viết được sử dụng không nhằm mục đích thương mại, chỉ nhằm mục đích giảng dạy, tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật, trong khuôn khổ chương trình hợp tác giữa Khoa Luật Kinh tế - Đại học Hòa Bình và Công ty Luật TNHH Everest.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, quý Vị vui lòng liên hệ với các luật sư, luật gia của Công ty Luật TNHH Everest và Khoa Luật Kinh tế - Đại học Hòa Bình, qua Tổng đài tư vấn pháp luật 19006198, E-mail: [email protected], hoặc trực tiếp tại địa chỉ Khoa Luật kinh tế Đại học Hòa Bình, số 8 phố Bùi Xuân Phái, Nam Từ Liêm, Hà Nội.