Hỏi: Tôi và chồng kết hôn vào tháng 7/2003 và chung sống đến nay được 2 cháu gái sinh năm 2005 và 2010. Vào tháng 08/2010 mẹ chồng tôi có cho nhà ở (đất thổ cư) và đất ở (Đất trồng cây lâu năm) và đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cả hai vợ chồng tôi cùng đứng tên.Tháng 11/2015 tôi phát hiện chồng quan hệ như vợ chồng với người phụ nữ khác, vì vậy chúng tôi có gửi đơn đến tòa án huyện xin ly hôn. Sau khi ly hôn tôi nuôi con vì chồng tôi không có nghề nghiệp gì. Tôi đòi chia tài sản nhà đất do mẹ chồng cho nhưng chồng tôi nói đây là tài sản của mẹ cho đó là tài sản riêng của chồng, tôi đứng tên chung chỉ là hợp thức hóa trên pháp luật mà thôi chứ không có quyền chia tài sản này. Nay tôi xin hỏi Luật sư vậy giấy chứng nhận nhà ở, đất ở mà tôi vừa trình bày ở phần trên có được gọi là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không? Sau khi ly hôn sẽ chia như thế nào? (Thanh Ngoan - Hà Tĩnh)
Luật gia Bùi Ánh Vân – Tổ tư vấn pháp luật bất động sản của Công ty Luật TNHH Everest – trả lời:
Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 tại điều 33 và điều 34 có quy định về tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân như sau:
“Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân,
trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung."
"Điều 34. Đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản chung
1. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứngnhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
2. Trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì giao dịch liênquan đến tài sản này được thực hiện theo quy định tại Điều 26 của Luật này; nếu có tranh chấp về tài sản đó thì được giải quyết theo quy định tạikhoản 3 Điều 33 của Luật này.”
Theo quy định trên của pháp luật thì tài sản là quyền sử dụng đất được tặng cho trong thời kì hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng trừ trường hợp được tặng cho riêng, được thừa kế riêng hoặc có được thông qua tài sản riêng ( đoạn 2 khoản 1 Điều 33 luật hôn nhân và gia đình năm 2014). Như vậy tài sản là quyền sử dụng đất có được trong thời kì hôn nhân trừ khi được tặng cho riêng và thừa kế riêng và có được bằng tài sản riêng thì đều là tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân. Và tài sản chung phải được đăng kí đứng tên cả 2 vợ chồng trừ trường hợp có thỏa thuận khác tức là thỏa thuận chỉ vợ hoặc chồng đứng tên ( khoản 1 Điều 34 luật hôn nhân và gia đình năm 2014). Theo thông tin bạn đưa ra thì bạn kết hôn vào năm 2003, đến tháng 8/2008 thì mẹ chồng bạn có cho bạn và chồng bạn đất, và đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cả hai vợ chồng bạn cùng đứng tên. Do vậy đây là quyền sử dụng đất được tặng cho chung trong thời kì hôn nhân, trên giấy tờ có ghi tên cả 2 vợ chồng bạn. Vì vậy tài sản này được coi là tài sản chung trong thời kì hôn nhân.
Về chia tài sản chung là quyền sử dụng đất sau khi li hôn được quy định tại điều 62 luật hôn nhân và gia đình năm 2014 như sau:
“Điều 62. Chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn
1. Quyền sử dụng đất là tài sản riêng của bên nào thì khi ly hôn vẫn thuộc về bên đó.
2. Việc chia quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn được thực hiện như sau: a) Đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, nếu cả hai bên đều có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì được chia theo thỏa thuận của hai bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định tại Điều 59 của Luật này. Trong trường hợp chỉ một bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng nhưng phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà họ được hưởng; b) Trong trường hợp vợ chồng có quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản chung với hộ gia đình thì khi ly hôn phần quyền sử dụng đất của vợ chồng được tách ra và chia theo quy định tại điểm a khoản này; c) Đối với đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở thì được chia theo quy định tại Điều 59 của Luật này; d) Đối với loại đất khác thì được chia theo quy định của pháp luật về đất đai.
3. Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà không có quyền sử dụng đất chung với hộ gia đình thì khi ly hôn quyền lợi của bên không có quyền sử dụng đất và không tiếp tục sống chung với gia đình được giải quyết theo quy định tại Điều 61 của Luật này.”
“Điều 59. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn
1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì
theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62,
63 và 64 của Luật này.
Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa
thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này
để giải quyết.
2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây: a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng; b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi
như lao động có thu nhập; c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập; d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng
hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật
này.
Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần
giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
5. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động
và không có tài sản để tự nuôi mình.
6. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn Điều này.”
Theo quy định của pháp luật nêu trên tài sản chung là quyền sử dụng đất khi li hôn sẽ được chia theo điều 62 tức là theo thỏa thuận của 2 bên, nếu hai bên không thể thỏa thuận được thì tòa án sẽ giải quyết theo quy định tại điều 59 luật hôn nhân và gia đình nếu cả hai bên có yêu cầu hoặc chỉ một bên vợ hoặc chồng có yêu cầu tòa án giải quyết.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật bất động sản mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận