-->

Di sản của ông bà nôi chia thế nào, nếu bố mất trước ông bà nội?

Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế

Hỏi: Ông bà nội tôi có 01 diện tích đất núi khoảng 2000m2. Lúc còn sống, ông bà có nói là cho bố của tôi diện tích đó để thờ cúng ông bà (bố là trưởng nam). Ông bà chỉ nói miệng, các cô, chú cũng cũng chỉ ngầm hiểu và đồng ý như thế. Ông nội có lập di chúc nhưng không có chứng thực, không có người làm chứng, các con cũng không ai ký vào. "Sổ đỏ" hiện vẫn đứng tên ông nội tôi. Gia đình tôi đã sản xuất trên diện tích đất này từ năm 1995 đến nay (2016). Năm 1999 bố của tôi mất. Năm 2000, ông nội mất. Năm 2001, bà nội mất. Năm 2009, Nhà nước đo đạc lại để cấp sổ đỏ. Diện tích đất này sau đó đứng tên mẹ của tôi. Các cô, các chú không có ý kiến, hay tranh chấp gì.

Hiện nay, có 02 người chú ruột của tôi lại yêu cầu mẹ tôi chia bớt một số diện tích đất cho họ. Cho tôi hỏi luật sư, nếu mẹ tôi không đồng ý cho họ thì họ có giành giật lại được theo quyền thừa kế hay không? (Văn Huy - Thanh Hóa)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thành Đạt - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Thứ nhất, về tính hợp pháp của di chúc.

Theo như thông tin bạn cung cấp thì khi ông bạn có lập di chúc nhưng không có chứng thực, không có người làm chứng và các con cũng không ai ký thì theo quy định tại Điều 655 Bộ Luật dân sự 2005quy định về di chúc bằng văn bản không có người làm chứng thì:

“Người lập di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc.
Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều 653 của Bộ luật này.”

Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân thủ các quy định tại Điều 653 như sau:“1. Di chúc phải ghi rõ: a) Ngày, tháng, năm lập di chúc;b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản hoặc xác định rõ các điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản; d) Di sản để lại và nơi có di sản; đ) Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ.

2. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.

Điều 652 quy định điều kiện để di chúc hợp pháp như sau:

“1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật" (khoản 1).

"Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này" (khoản 4).

Như vậy, nếu bản di chúc của ông nội của anh (chị) để lại là bản tự viết tay và có chữ ký và bản di chúc; di chúc không có chứng thực, không có người làm chứng nếu đáp ứng yêu cầu tại Khoản 1 Điều 652 thì di chúc do ông bạn để lại được coi là hợp pháp.

Thứ hai, chia di sản thừa kế theo pháp luật.

Trong trường hợp di chúc hợp pháp thì sẽ tiến hành chia di sản thừ kế theo di chúc. Tuy nhiên, do bố của
anh (chị)mất năm 1999, ông củaanh (chị)(người để lại di sản thừa kế) mất năm 2000, bà củaanh (chị)mất năm 2001 (người để lại di sản thừa kế) thì bố củaanh (chị)là người được hưởng di sản thừa kế theo di chức nhưng chết trước người để lại di sản thì theo quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 667 Bộ luật dân sự năm 2005:


“2. Di chúc không có hiệu lực pháp luật toàn bộ hoặc một phần trong các trường hợp sau đây:a. Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc”.

Do bố của
anh (chị)chết trước người lập di chúc mà nội dung di chúc định đoạt cho bố củaanh (chị)hưởng toàn bộ diện tích đất đó, nên di chúc không có hiệu lực pháp luật toàn bộ. Khi di chúc không có hiệu lực pháp luật thì sẽ tiến hành chia di sản thừa kế theo pháp luật.

Khi đó, những người được hưởng thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự và nguyên tắc được di sản sau:

“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; ...2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản”.

Như vậy, khi ông nội của
anh (chị)mất, những người có quyền hưởng di sản của ông nội củaanh (chị)bao gồm: cụ nội (nếu còn sống), bà nội, các con của ông nội. Và mỗi người sẽ được hưởng một phần di sản bằng nhau.

Và khi bà nội củaanh (chị)mất, người được hưởng di sản sẽ bao gồm: cụ ngoại (nếu còn sống), các con của bà nội, và mỗi người sẽ được hưởng một phần di sản bằng nhau.

Khi chia di sản theo pháp luật mà bố củaanh (chị)chết trước ông, bà, thì theo quy định tại Điều 677 Bộ luật dân sự về thừa kế thế vị thìanh (chị)và các anh, chị, em củaanh (chị)sẽ được hưởng phần di sản mà bốanh (chị)được hưởng nếu còn sống:

“Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”.

Theo đó, khi ông, bà của
anh (chị)mất thì di sản thừa kế sẽ được chia đều có các con của ông nội; các anh, chị, em củaanh (chị)anh (chị)(người thừa kế thế vị của bố). Các con của ông nội và các anh, chị, em củaanh (chị)anh (chị)(hưởng phần di sản mà bố được hưởng) được hưởng một phần di sản thừa kế bằng nhau. Trong trường hợp này, mẹ củaanh (chị)không thuộc đối tượng được hưởng di sản thừa kế của ông bà bạn để lại theo pháp luật.

Thứ ba, về thời hiệu khởi kiện về thừa kế.

Thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế, theo quy định tại Điều 645 Bộ luật dân sự năm, thì: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế...".

Như vậy, ông bà bạnđã mất hơn 10 năm nên hiện nay đã hết thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế, ai đang trực tiếp quản lý sử dụng di sản thừa kế thì sẽ tiếp tục quản lý sử dụng, những người thừa kế khác không còn quyền khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế. Do đã hết thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kếnên khi có yêu cầu tòa án giải quyết về vấn đề chia thừa kế thì sẽ không được giải quyết.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.