-->

Có được hạn chế quyền thăm con của chồng?

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Hỏi: Sau khi ly hôn với chồng, tôi được quyền nuôi con trai của tôi. Hiện nay, nhiều lần chồng tôi lấy cớ đến thăm con để đến làm phiền cuộc sống của mẹ con tôi, đe dọa rồi đòi tiền của mẹ con tôi để uống rượu và đánh bạc. Đề nghị Luật sư tư vấn, tôi có quyền yêu cầu Tòa án không cho chồng tôi tới thăm con của tôi không? ( HoàngLan - Vĩnh Phúc)
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thị Yến - Tổ tư vấn pháp luật Hôn nhân và Gia đình của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 (Luật HN&GĐ) quy định về nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn như sau:

"3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó".

Như vậy, trường hợp chồng chị thường xuyên lấy cớ đến thăm con để làm phiền cuộc sống của mẹ con chị, làm ảnh hưởng đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của chồng chị theo quy định tại khoản 3 Điều 82 Luật HN&GĐ.

Khuyến nghị:
  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật Hôn nhân và Gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.