-->

Cổ đông sáng lập có thể rút vốn khỏi công ty cổ phần?

Bạn chỉ cỏ thể rút vốn khỏi công ty bằng cách, yêu cầu công ty mua lại số cổ phần của bạn hoặc chuyển nhượng cổ phần cho cổ đông sáng lập hoặc người khác theo quy định.

Hỏi: Cách đây 02 (hai) năm tôi và hai người khác góp vốn thành lập công ty cổ phầǹn. Một người làm Giám đốc nắm 51% tôi 29% và người khác là 20% tỉ lệ vốn góṕp. Hiện nay vì lý do cá nhân tôi muốn rút phần vốn góp khỏi công ty. Xin Luật sư cho biết, tôi có thể rút vốn được không ? (Nhật Hoàng – Hà Nội)
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Văn Anh - Tổ tư vấn pháp luật doanh nghiệp Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Khoản 3 Điều 119 Luật doanh nghiệp năm 2014 quy định cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập như sau:

“3. Trong thời hạn 3 năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cổ đông sáng lập có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho cổ đông sáng lập khác, nhưng chỉ được chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho người không phải là cổ đông sáng lập nếu được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông”.

Như vậy, anh có thể rút vốn khỏi công ty, bằng cách yêu cầu công ty mua lại số cổ phần của anh, hoặc chuyển nhượng cổ phần của mình cho cổ đông sáng lập khác theo quy định. Sau thời hạn 3 năm, kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, tức là một năm nữa trong trường hợp của anh, các hạn chế đối với cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập đều được bãi bỏ, khi đó anh có thể tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác không phải thành viên công ty.

Khuyến nghị:
  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật doanh nghiệp mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.