-->

Chia tài sản khi không đề cập đến trong nội dung của di chúc

Điều 669 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc

Hỏi: Cha mẹ tôi có 3 người con sinh năm 1969, 1978 và 1974, trong đó tôi là thứ hai, ông bà bên nội ngoại đều chết trong chiến tranh. Người chị cả lấy chồng sinh hai đứa con vào năm 1993. Cha mẹ tôi có tổng tài sản̉n là 1 tỷ 920 triệu. Cha tôi trước khi mất có để di chúcc cho 2 cháu con của chị cả tôi 1/2 tài sản. Đứa em út tôi có làm giấy xin từ chối nhận tài sản. Vậy xin luậtt sư giúp tôi xác định tài sản của các thành viên trong gia đình? (Thanh Hưng - Hải Dương)

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thành Đạt - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Theo thông tin anh cung cấp, cha anh mất có để lại di chúc cho 2 cháu (2 con của chị cả) hưởng ½ số di sản thừa kế, và không đề cập đến ½ còn lại. Theo đó, pháp luật có quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Cụ thể, tại Điều 669 Bộ luật Dân sự 2005 quy định như sau:

“Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:

1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động”.

Theo quy định trên, cha, mẹ, vợ, chồng, con chưa thành niên hoặc con đã thành niên không có khả năng lao động sẽ có quyền thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc.

Tuy nhiên, thông tin anh cung cấp chưa rõ ràng về việc mẹ anh còn sống hay không và các anh em anh (3 người con) có khả năng lao động hay không. Trường hợp mẹ anh còn sống và 3 người con không có khả năng lao động thì sẽ được hưởng thừa kế theo quy định trên.

Trường hợp mẹ anh đã mất và 3 người con có khả năng lao động bình thường thì ½ di sản còn lại sẽ được chia theo pháp luật theo các hàng thừa kế. Cụ thể, tại Điều 676 Bộ luật Dân sự quy định về Người thừa kế theo pháp luật như sau:

“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản”.

Tuy nhiên, khi không còn một người nào trong các hàng thừa kế thì phần di sản còn lại sẽ thuộc về Nhà nước. Cụ thể, tại Điều 644 Bộ luật dân sự 2005 quy định về Tài sản không có người nhận thừa kế thuộc Nhà nước:

“Trong trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế thuộc Nhà nước”.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.