Các thành viên của hộ gia đình chiếm hữu và sử dụng tài sản chung của hộ theo phương thức thoả thuận.
Hỏi: Gia đình tôi có mua một mảnh đất ở nông thôn diện tích 189 m2 từ năm 2008 và đã xây nhà vào cùng năm. Trong quá trình mua bán cha tôi đả trả đầy đủ tiền nhưng chưa làm giấy chuyển nhượng vì trong thời gian này bên bán đem sổ đỏ đi thế chấp ngân hàng. Đến nay là năm 2016 tôi có nhờ bên bán đi chuyển quyền sử dụng đất và vợ chồng bên bán cũng đồng ý lên Ủy ban nhân dân xã làm giấy mua bán chuyển nhượng. Nhưng bên Ủy ban nhân dân xã không đồng ý ký vì trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là của hộ gia đình. Vợ chồng bên bán là chủ hộ đã ký tên nhưng 7 người con của họ chưa ký nên xã không chứng nhận. Vợ chồng bên bán đã liên hệ với các con của họ để gửi giấy ủy quyền về họ cũng đồng ý không tranh chấp nhưng họ hứa hoài mà không gởi giấy ủy quyền về, ( vì 7 người con đã có gia đình, tách hộ khẩu ra riêng và đi làm ăn xa ở các tỉnh khác nhau và vài năm họ mới về quê một lần). Bây giờ tôi muốn chuyển tên quyền sử dụng đất cho tôi xin hỏi luật sư có cách nào chuyển tên được không. Vợ chồng bên bán đã đưa Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gốc cho tôi và cũng đã lên Ủy bạn nhân dân xã ký tên chuyển nhượng nhưng chưa có chứng nhận của chủ tịch xã. Vậy giải quyết như thế nào? (Hồng Hạnh - Thái Bình)
Luật gia Nguyễn Bảo An- Tổ tư vấn pháp luật bất động sản của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Điều 108 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về tài sản chung của hộ gia đình như sau:
"Tài sản chung của hộ gia đình gồm quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, rừng trồng của hộ gia đình, tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên hoặc được tặng cho chung, được thừa kế chung và các tài sản khác mà các thành viên thoả thuận là tài sản chung của hộ".
Điều 109 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của hộ gia đình như sau:
"1.Các thành viên của hộ gia đình chiếm hữu và sử dụng tài sản chung của hộ theo phương thức thoả thuận.
2.Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý; đối với các loại tài sản chung khác phải được đa số thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý”.
Vì thế, khi tham gia mua bán mảnh đất này, bên bán bắt buộc phải có sự đồng ý của tất cả các thành viên trong gia đình.
Do các thành viên trong gia đình bên bán đã đồng ý chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho nhà bạn nên bạn cần yêu cầu họ viết 1 bản thỏa thuận về sự đồng ý trên của tất cả thành viên trong gia đình bên bán và có chữ ký của họ. Khi đó, bạn mới được chuyển tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nếu các thành viên trong gia đình ở xa không thể gặp nhau để cùng lập biên bản, các thành viên trong gia đình có thể viết một văn bản xác nhận gửi về cho chủ hộ gia đình: nội dung viết về sự đồng ý của mình đối với việc đồng ý để chủ hộ gia đình chuyển nhượng mảnh đất đó và văn bản này phải được công chứng.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật bất động sản mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật bất động sản mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận