-->

Chủ hộ được bán đất chung của hộ gia đình khi nào?

Người có tên trên Giấy chứng nhận hoặc người được ủy quyền theo quy định của pháp luật về dân sự quy định tại Khoản 1 Điều 64 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP chỉ được thực hiện việc ký hợp đồng...

Hỏi: Gia đình tôi được Nhà nước giao chung cho một diện tích đất để sử dụng và làm nhà ở. Diện tích đất trên đã được cấp Sổ đỏ mang tên chủ hộ là bố tôi. Nay gia đình tôi muốn bán diện tích đất trên. Đề nghị Luật sư tư vấn, khi ký hợp đồng chuyển nhượng thì chỉ cần bố tôi ký hay bắt buộc là mọi thành viên ký vào hợp đồng? (Lương Thanh Hiền - Bắc Giang)


>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thị Tâm - Tổ tư vấn pháp luật đất đai của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Khoản 5 Điều 14 Thông tư 02/2015/TT-BTNMT ngày 27 tháng 01 năm 2015 Quy định Chi tiết một số điều của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP và Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 05 năm 2014 của Chính phủ quy định về người ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất như sau: “Người có tên trên Giấy chứng nhận hoặc người được ủy quyền theo quy định của pháp luật về dân sự quy định tại Khoản 1 Điều 64 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP chỉ được thực hiện việc ký hợp đồng, văn bản giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất khi đã được các thành viên trong hộ gia đình sử dụng đất đồng ý bằng văn bản và văn bản đó đã được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật”.

Như vậy, theo quy định của pháp luật, trường hợp đất của gia đình anh (chị) có bố anh (chị) đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì bố anh (chị) sẽ là người ký hợp đồng khi đã được các thành viên trong gia đình bạn đồng ý bằng văn bản và văn bản đó phải được công chứng hoặc chứng thực theo quy định.

Khuyến nghị:
  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật đất đai mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.