-->

Tư vấn về tranh chấp đất đai là di sản thừa kế

Sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản thừa kế do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế.

Hỏi: Ông tôi và gia đình sinh sống trên mảnh đất được tổ tiên để lại từ những năm 70. Ông tôi có 2 em gái và đều đã lập gia đình vào thời gian trên. Đến năm 1998 thì cụ tôi mất và ông tôi thừa kế lại mảnh đất trên. Ông tôi đã đi làm sổ đỏ và nhà tôi đã hoàn thành nghĩa vụ nộp phí đất cho nhà nước từ những năm đó. Đến nay 2 em gái của ông quay về đòi chia đất với lý do khi làm sổ đỏ không có mặt các bà ở đó. Ủy ban nhân dân xã đã tiến hành hòa giải nhiều lần mà không được. Cụ tôi đã di trúc miệng để lại mảnh đất cho ông tôi, gia đình tôi đã có sổ đỏ chứng nhận quyền sử dụng đất và hoàn thành nghĩa vụ nộp phí đất cho nhà nước. Vậy việc tranh chấp này sẽ đi đến đâu và kết quả như thế nào? Gia đình tôi nên làm gì bây giờ? Tôi rất mong nhận được sự hỗ trợ từ quý công ty sớm nhất có thể. Sự việc kéo dài quá lâu không có lợi cho cả hai bên và gia đình tôi rất mệt mỏi rồi. (Linh Tú - Ninh Bình)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Văn Nam - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Thứ nhất, vì cụ của bạn mất năm 1998 nêncăn cứ theoĐiều 654 Bộ luật Dân sự 1995 quy định:di chúc miệng được lập"trong trường hợp tính mạng một ngườibị cái chếtđe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà khôngthể lập di chúc bằng văn bản""di chúc miệng được coi làhợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ".

Như vậy, nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện trên thì di chúc miệng của cụ bạn là hợp pháp. Theo đó, ông bạn là người đượcthừa kế mảnh đất mà cụ bạn để lại.

Hơn nữa, trong trường hợp này, cụ bạn mất năm 1998 tứclà thời điểm mở thừa kế là năm 1998, do đó theo quy định tại tiểu mục 2.2Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP"Đối với trường hợp thừa kế mở từ ngày 1/7/1996 thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế được thực hiện theo quy định tại Điều 648của Bộ luật Dân sự".

Căn cứ theoĐiều 648Bộ luật Dân sự 1995 quy định:

"Điều 648. Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế

Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế."

Đến thời điểm năm 2016 thì thời hiệu khởi kiện về thừa kế tại Bộ luật dân sự 2005 quy định thời hiệu khởi kiện về thừa kế cũng là 10 năm.

Theo thông tin bạn cung cấp, cụ của bạn mất năm 1998 nhưng đến nay hai em gái của ông bạn mới quay về đòi chia đất. Trong trường hợp này, theo quy định của pháp luật thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản đã hết.

Theo quy định tại tiểumục 2.4 Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP:

“Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kếđều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết”.

Theo quy định trên thì thời hiệu khởi kiện chia thừa kế, do đó, để khởi kiện phân chia tài sản thì tất cả những người thừa kế phải có văn bản thỏa thuận không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia. Trường hợp không có sự thỏa thuận đó thì không có quyền khởi kiện để chia.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.