-->

Tư vấn pháp luật: chế độ hưu trí khi về hưu do sức khỏe kém

Người lao động quy định tại các điểm a, b, c, d, g, h và i khoản 1 Điều 2 của Luật này khi nghỉ việc có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên được hưởng lương hưu với mức thấp hơn so với người đủ điều kiện hưởng lương hưu quy định tại điểm a...

Hỏi: Tôi sinh tháng 7/1974, tôi là nữ và là lao động trực tiếp, công việc nặng nhọc. Do sức khỏe không tốt nên tôi không đủ khả năng công tác được. Nay tôi muốn làm chế độ thôi việc để chốt sổ bảo hiểm. Đến tháng 12/2016 năm công tác của tôi là 21 năm 8 tháng. Tôi xin hỏi nếu bây giờ tôi nghỉ việc thì chế độ được hưởng như thế nào? (Đoàn Thế - Hà Nội)
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Phạm Thị Mai Phương - Tổ tư vấn pháp luật lao động Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Tính đến 2016, bác được 44 tuổi và có 21 năm 8 tháng tham gia bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên do thông tin bác cung cấp không đầy đủ nên đặt ra 2 trường hợp như sau:

Trường hợp 1: Bác có đủ 15 năm làm công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại nguy hiểm.

Điều 55. Điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động – Luật bảo hiểm xã hội 2014.

“1. Người lao động quy định tại các điểm a, b, c, d, g, h và i khoản 1 Điều 2 của Luật này khi nghỉ việc có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên được hưởng lương hưu với mức thấp hơn so với người đủ điều kiện hưởng lương hưu quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 54 của Luật này nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:a) Từ ngày 01 tháng 01 năm 2016, nam đủ 51 tuổi, nữ đủ 46 tuổi và bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên thì đủ điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động. Sau đó mỗi năm tăng thêm một tuổi cho đến năm 2020 trở đi, nam đủ 55 tuổi và nữ đủ 50 tuổi thì mới đủ điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên;b) Nam đủ 50 tuổi, nữ đủ 45 tuổi và bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên;c) Bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên và có đủ 15 năm trở lên làm nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế ban hành.”

Căn cứ theo quy định trên, nếu bác có đủ 15 năm làm công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm đồng thời bị suy giảm khả năng lao động từ đủ 61% trở lên thì bác sẽ đủ điều kiện để nghỉ hưu trước tuổi. Tuy nhiên, do hưởng lương hưu trước tuổi nên mỗi năm bác sẽ bị giảm trừ tỷ lệ lương hưu 2% ứng với mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi. Tuổi nghỉ hưu trong trường hợp của bác được xác định là 50 tuổi (điểm b khoản 1 Điều 54 Luật BHXH 2014). Theo đó mức giảm trừ là 50 – 44 = 6 tuổi = 12%.

Trong trường hợp này, do bác đã đủ điều kiện hưởng lương hưu trước tuổi, nên khi chấm dứt hợp dồng lao động bác sẽ không được chi trả trợ cấp thôi việc và không đủ điều kiện để hưởng bảo hiểm thất nghiệp.

Trường hợp 2: Bác không có đủ 15 năm làm công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại nguy hiểm.

Đối chiếu với quy định tại Điều 54 và Điều 55 Luật bảo hiểm xã hội 2016 thì bác không đủ điều kiện để nghỉ hưu trước tuổi. Do vậy, bác sẽ phải bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội, chờ đến khi bác đủ tuổi (đủ 50 tuổi) thì bác sẽ được hưởng chế độ hưu trí.

Do không đủ kiều kiện hưởng lương hưu nên khi chấm dứt hợp đồng lao động bác sẽ được đơn vị tri trả trợ cấp thôi việc. Mỗi năm làm việc bằng ½ trung bình tiền lương 6 tháng trước khi nghỉ việc. Thời gian tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian làm việc trừ đi thời gian đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp.

Về trợ cấp thất nghiệp, nếu sau khi chấm dứt hợp đồng lao động bác không tìm được việc làm thì trong thời gian 3 tháng sau khi có quyết định thôi việc bác có thể làm hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.